lundi 26 octobre 2020

Một số điều cần nói qua chuyến thăm VN của tân thủ tướng Nhật Yoshihide Suga.

Một số dấu hiệu cho thấy quan hệ Việt-Nhật sẽ thay đổi “sâu sắc” trong lãnh vực quốc phòng qua chuyến thăm viếng của thủ tướng Yoshihide Suga vào tuần rồi. Báo chí loan tin hai bên Việt-Nhật đã đạt những thỏa thuận cơ bản về một “hiệp định chuyển giao công nghệ và thiết bị quốc phòng”.

Sự thay đổi “chiều sâu quốc phòng” trong quan hệ Việt-Nhật trước hết có thể là viên đá thăm dò dư luận nước Nhật trước chính sách mới về quốc phòng của nội các Suga mà chính sách này có thể sẽ mâu thuẫn với nội dung điều 9 Hiến pháp. Sau đó cho thấy sự quyết tâm của VN là không loại trừ việc sử dụng vũ lực để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, như bộ quốc phòng đã “trả lời cử tri” qua bài báo trên Thanh niên hôm 23 tháng mười 2020.
Tân thủ tướng Yoshihide Suga trên thực tế không có “chính danh” như vị tiền nhiệm Shinzo Abe, mặc dầu ông cũng được Quốc hội chỉ định trước sự chứng kiến của Nhật hoàng. Nhiệm kỳ của ông Suga chỉ tiếp nối phần thời gian còn lại của thủ tướng tiền nhiệm, từ nay cho tới cuối năm 2021. Quốc hội hiện thời là do dân Nhật bầu ra để ủng hộ Shinzo Abe (chứ không phải ủng hộ ông Suga). Chưa biết sau đó dân Nhật có tin tưởng ủng hộ ông Yoshihide Suga hay không.
Câu hỏi đặt ra là, tại sao một hiệp ước quan trọng về quốc phòng (chuyển giao công nghệ và bán thiết bị quốc phòng) lại không được thúc đẩy dưới thời Shinzo Abe mà lại bắt đầu dưới thời một nội các “chuyển tiếp” ?. Shinzo Abe có hai nhiệm kỳ (7 năm và 263 ngày) thủ tướng để xúc tiến việc đào sâu quan hệ quốc phòng với VN.
Vì vậy ta có thể hoài nghi về lý do “cáo bịnh” nghỉ hưu của Shinzo Abe. Thay đổi nội dung điều 9 Hiến pháp là một “phiêu lưu chính trị” của đảng cầm quyền. Bởi vì muốn tu chính Hiến pháp cần phải có sự đồng thuận của ⅔ đại biểu quốc hội và sau đó phải được sự chuẩn thuận của quốc dân trong một cuộc “trưng cầu dân ý”.
Điều 9 Hiến pháp Nhật được Quốc hội biểu quyết vào ngày 3 tháng mười một năm 1946, có hiệu lực ngày 3 tháng năm 1947, dĩ nhiên dưới thời kỳ “quân quản” của Hoa kỳ. Nội dung điều 9:
“Vì lòng mong muốn chân thành một nền hòa bình quốc tế đặt trên nền tảng công lý và trật tự, nhân dân Nhật Bản vĩnh viễn từ bỏ việc can dự vào chiến tranh như quyền chủ quyền của quốc gia, (cũng như từ bỏ việc) đe dọa, hoặc sử dụng vũ lực như một phương tiện nhằm giải quyết các xung đột quốc tế.
Để đạt được mục tiêu, nước Nhật sẽ không có lực lượng bộ binh, hải quân và không quân cũng như không duy trì bất kỳ một tiềm năng chiến tranh nào. Quyền được can thiệp (vào chiến tranh) của quốc gia sẽ không được công nhận. "
Qua cuộc chiến tranh Triều Tiên, quan điểm quốc phòng Nhật có một số thay đổi, đồng thời với việc chấm dứt “thời kỳ quân quản”, Nhật trở thành một đồng minh thân cận của Mỹ. Cuộc chiến Vùng Vịnh Nhật đã đứng về phía Mỹ, không phải tiếp tay trên chiến trường, mà lo phần “hậu cần”. Tiếp theo các căng thẳng với TQ về chủ quyền quần đảo Senkaku (Điếu ngư) đầu thập niên 70 đồng thời với các động thái đe dọa quân sự của Bắc Triều tiên, nhứt là sau khi quốc gia này thử nghiệm thành công vũ khí hạt nhân, quan điểm về “an ninh quốc gia” của Nhật đã có những thay đổi lớn.
Hiện tại Nhật đã có “bộ quốc phòng” và “lực lượng phòng vệ”, với đầy đủ các lực lượng không quân, hải quân, bộ binh… dĩ nhiên được trang bị bằng các loại vũ thí tối tân nhứt. Ngân sách quốc phòng được giới hạn không quá 1% GDP nhưng thời thủ tướng Shinzo Abe quan điểm “diều hâu” về quốc phòng của Nhật được khuyến khích, con số này mỗi năm mỗi “vượt rào”, tương ứng hiện nay khoảng 44 tỉ EU. Ngoài ra thời thủ tướng Abe, năm 2014 Nhật được phép phép xuất khẩu vũ khí ra nước ngoài, dĩ nhiên ban đầu là bán các bộ phận cảm biến trong Ra đa cho quân đội Mỹ, sau đó cung cấp cho các quốc gia, như ASEAN, các loại tàu tuần duyên…
Các điều này cho thấy điều 9 Hiến pháp của Nhật trên hình thức đã không được tôn trọng, vì các “lý do chính đáng” phục vụ cho sự bảo toàn lãnh thổ và sự tồn vong của dân tộc Nhật.
Câu hỏi đặt ra là nội dung Nhật sẽ chuyển giao công nghệ quốc phòng nào và bán thiết bị nào cho VN ?
Phát ngôn nhân chính phủ Nhật trả lời báo chí, bằng “ngôn từ ngoại giao”, tức là ai muốn hiểu sao thì hiểu. Chính phủ Suga thực sự muốn tu chính điều 9 HP, lấy lại quyền chủ quyền về chiến tranh, hay quyền can dự vào chiến tranh của Nhật, để đối phó với sự bành trướng của TQ cũng như các đe dọa hạt nhân từ Bắc Triều tiên ? Hay là chính phủ này cũng tìm cách “đi vòng” để đạt mục tiêu như các vị thủ tướng tiền nhiệm ?
Theo tôi việc “đi vòng” kỳ này sẽ rất khó khăn. Bởi vì trung tâm của quan niệm Ấn độ Thái bình dương, hay trọng tâm của “tứ giác kim cương” (Nhật Mỹ Ấn Úc) là Việt Nam (và Indonesia) chớ không phải là ASEAN. Chuyến thăm đầu tiên của Suga sau khi nhậm chức là VN và sau đó là Indonesia cho ta thấy điều này. Mà việc “tự vệ” trước sự bành trướng của TQ, Nhật không thể đứng một mình. VN và Nhật có chung mối lo là bị TQ đe dọa chủ quyền lãnh thổ (Nhật ở quần đảo Senkaku và VN ở HS và TS) đồng thời có chung lợi ích trước quan điểm “Ấn độ Thái bình dương tự do và rộng mở”.
Nếu giữ nguyên nội dung điều 9 HP, Nhật có thể sẽ bị “trói tay” trước các hành vi gây chiến tranh của TQ.
Theo tôi, ý kiến từ nhiều năm nay, nếu TQ khởi động chiến tranh để “thống nhứt” Đài loan, TQ sẽ kéo vào cuộc chiến cả Nhật lẫn VN. Bởi vì TQ sẽ “thanh toán” vấn đề chủ quyền lãnh thổ một lần một rồi thôi, bao gồm Điếu Ngư và TS.
Đối với Việt Nam, lần đầu tiên “trả lời cử tri” hôm kia, Bộ Quốc hòng VN biểu lộ thẳng thừng quan điểm sử dụng vũ lực để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Điều này cho thấy dụng cụ pháp lý có thể bị gạt sang một bên.
Ta có thể “thấu hiểu” nỗi lòng của lãnh đạo Hà nội. Trong “cuộc chiến các công hàm” ở Ủy ban ranh giới thềm lục địa thuộc LHQ, VN đã “thua” trước TQ. VN đã “im lặng” trước lập luận của TQ, qua công hàm 17 tháng tư năm 2020, cho rằng VN đã bị “estopped”.
TQ cho rằng VN đã “nhìn nhận” chủ quyền của TQ ở HS và TS từ năm 1958 rồi, bây giờ VN không thể “nói ngược”.
Tập quán quốc tế quan niệm rằng thái độ “im lặng” của một quốc gia trước một vấn đề có liên quan đến quốc gia, là sự “đồng thuận mặc nhiên”.
Công hàm của ba đại cường Châu Âu là Anh, Đức và Pháp gởi LHQ cho biết các quốc gia này “không có ý kiến” về tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia ở Biển Đông.
Điều này trái với lịch sử.
VN là cựu thuộc địa của Pháp (1874-1949). Các lãnh thổ Hoàng Sa và Trường sa đã được Pháp thâu hồi, tái khẳng định chủ quyền đồng thời sáp nhập vào lãnh thổ VN.
Vấn đề là Pháp trả độc lập cho VN qua chính quyền Bảo Đại (Quốc Gia Việt Nam) qua Hiệp định Elysée mà quốc gia nối tiếp là Việt Nam cộng hòa.
Lãnh thổ HS và TS thuộc chủ quyền của VNCH mà thực thể này không còn tồn tại. Lý ra HS và TS sẽ chuyển lại cho chính quyền kế thừa VNCH.
Vô số lần tôi khuyến cáo VN hôm nay phải làm thủ tục “kế thừa” di sản VNCH để khẳng định chủ quyền HS và TS.
Pháp (và Anh và Đức) không có lý do để tuyên bố “không có ý kiến” về chủ quyền HS và TS, ngoại trừ lý do VNCH sụp đổ và không có kế thừa.
Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng pháp lý với TQ, VN phần thua nhiều hơn phần thắng. Bây giờ VN chỉ có phương pháp vũ lực để bảo vệ lãnh thổ.
Theo tôi, rất có thể từ nay cho tới hết tháng 11, TQ có thể “mở mặt trận” để “thâu hồi các vùng lãnh thổ đang bị kẻ địch chiếm đóng”, như lúc đánh HS tháng giêng 1974.
Đối với VN, mặt trận dễ nhứt, TQ có thể đánh đảo Bạch long vĩ (và giúp Campuchia đánh đảo Phú quốc) để yêu cầu VN “giao” trong hòa bình các đảo ở TS. (Đảo Bạch long vĩ thuộc về VN theo công ước phân định biên giới Pháp Thanh 1887, vì nằm bên này “đường đỏ” phân chia Vịnh Bắc Việt). Giả thuyết này có thể xảy ra nếu TQ lo ngại việc can thiệp vào Đài loan sẽ “đụng độ” với Mỹ mà TQ thấy là chưa chắc thắng. TQ cũng sẽ không chiếm các đảo TS bằng vũ lực, nếu thấy thái độ của Mỹ sẽ can thiệp.
“Pacta sunt servanda”, cam kết phải giữ lời, là cốt lõi của luật quốc tế.
Các học giả VN có vô số bài viết giải thích về hiệu lực công hàm 1958, tôi không nhắc lại. Vấn đề là ý kiến nhiều “như lá mùa thu” mà VN không thể “khơi trong gạn đục” lấy ra một ý kiến “nghe được” để phản biện công hàm 17 tháng tư của TQ (về lập luận VN bị estopped).
VN “bội ước” thì TQ sẽ “bội ước”, lấy lại Bạch long vĩ. Điều này tôi đã cảnh báo ít ra từ 10 năm trước, nhân viết các bài về việc phân định Vịnh Bắc Việt tháng 12 năm 2000. TQ cũng có thể mở "liên minh" với Campuchia, qua việc mở căn cứ sát nách VN, dùng dân Miên đánh VN đến gọt máu cuối cùng để lấy đảo Phú Quốc.
Bây giờ đã quá trễ để kế thừa danh nghĩa VNCH. Pháp đã biểu lộ ý kiến về chủ quyền HS và TS. Danh có chánh thì ngôn mới thuận.
Ngoài “chiến tranh” thì VN “hết cách”.

dimanche 11 octobre 2020

Từ "thần linh pháp quyền".... đến "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa"...

 Bi kịch “pháp quyền”...


Năm 1994 ông Đỗ Mười đưa ra khái niệm “Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Nội dung “nhà nước pháp quyền XHCN” được tóm tắt trong Nghị quyết “VỀ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020”. 

Đây không phải là một “khái niệm” mới về mô hình xây dựng nhà nước với nội hàm pháp chế xã hội chủ nghĩa mà Đỗ Mười chỉ mô phỏng theo mô hình xây dựng “quốc gia pháp trị xã hội chủ nghĩa” của Trung quốc.

Từ cuối thập niên 80 thế kỷ trước, trước nhu cầu thay đổi pháp luật để gia nhập kinh tế toàn cầu, TQ đưa ra khái niệm "quốc gia pháp trị xã hội chủ nghĩa" như là một mô hình nhà nước kiểu mới, đưa pháp chế xã hội chủ nghĩa theo màu sắc TQ vào mô hình nhà nước Tây phương "l'Etat de Droit". 

Điều 5 Hiến pháp TQ 1982 (bát nhị) nói về sự “tôn nghiêm và thống nhứt của pháp chế”. Năm 1999 tu chính lại với nội dung “nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quản trị quốc gia theo pháp luật đồng thời xây dựng một nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa”. Nhờ đó TQ được gia nhập WTO năm 2000.

Mỗi thời lãnh đạo CSTQ tạo một “dấu ấn”, qua một đóng góp “tư tưởng” của cá nhân về mô hình “quốc gia pháp trị”. Ông Giang Trạch Dân chủ trương “dĩ pháp trị quốc 以法治国 » - tức dùng pháp luật quản trị đất nước và “kiến thiết xã hội chủ nghĩa pháp trị quốc gia 建设社会主义法治国家 », tức là “xây dựng quốc gia pháp trị xã hội chủ nghĩa”. Hồ Cẩm Đào đóng góp tư tưởng “Xã hội hài hòa”:  “hài hòa xã hội tựu thị pháp trị xã hội  社会就是社会法治 », tức là “xã hội hài hòa tức là xã hội pháp trị”. Đặc biệt thời Tập Cận Bình, tư tưởng pháp trị của ông này là “trụ cột thứ ba” trong bốn trụ cột “tư tưởng Tập Cận Bình”, chủ đề được đưa vào Hiến pháp và được đưa vào dạy các trường đại học. Tập Cận Bình chủ trương “trụ cột thứ ba” 1/ đảng lãnh đạo, 2/ chủ quyền thuộc về nhân dân 3/ bình đẳng trước pháp luật 4/ dựa vào pháp luật để quản trị đất nước và bằng các tiêu chuẩn đạo đức (依法治国 Ỷ pháp trị quốc và 德治 đức trị). 

Nguồn gốc thuật ngữ “quốc gia pháp trị” là “Etat de Droit”, mô hình xây dựng quốc gia của Pháp. "L'Etat" có nghĩa là "quốc gia", hay theo VN hiện thời là "nhà nước". "Droit" có hai nghĩa : 1/"luật pháp" và 2/"quyền". Ý nghĩa của "Droit" trong "Etat de Droit" là "pháp luật". "L'Etat de Droit" là quốc gia (hay nhà nước) được xây dựng trên các hệ thống luật.

“Quốc gia pháp trị xã hội chủ nghĩa” vì vậy (có thể) dịch sang tiếng Pháp là “Etat de Droit Socialiste”. 

Đỗ Mười mượn tư tưởng của cộng sản TQ, "quốc gia pháp trị xã hội chủ nghĩa" của TQ được VN thay đổi một chút, trở thành "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa".

Tạm chấp nhận cách dùng từ của VN là đúng (mà điều này không hẵn), “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” có thể dịch thành “Etat de Droit Socialiste”. 

Hiến pháp VN 2013, Điều 2 khoản 1 qui định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.”

“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là một “khái niệm” xây dựng “quốc gia xã hội chủ nghĩa” trên nền tảng các hệ thống luật XHCN. Vì là một cụm từ thuộc về “khái niệm”, các từ trong cụm từ này không thể tách rời. 

Tách rời “Xã hội chủ nghĩa” ra khỏi “nhà nước pháp quyền” sự ngộ nhận sẽ cực kỳ lớn. Việc này sẽ tạo ra sự nhặp nhằng giữa hai mô hình xây dựng quốc gia, một là “Etat de Droit” thuộc chế độ dân chủ tự do và một là độc tài cộng sản (nhà nước được xây dựng bằng một rừng luật nhưng cán bộ chỉ xài luật rừng).

Trí thức VN, trong và ngoài nước, cùng thời kỳ, người thì "vẽ rắn thêm chân", người thì đóng vai phù thủy hà hơi vào lỗ mũi pho tượng đất sét "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa". Không biết đến nay (tới hạn năm 2020) cái gọi là “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” đã được “định hình” cụ thể hay chưa ? 

Qua Hội nghị trung ương XIII vừa rồi ta thấy đề cập tới “đức trị”. Rốt cục đảng CSVN vẫn “bế tắt” trong tư tưởng. Mọi thứ đều rập khuôn tư tưởng của TQ, mà thực chất là của Tập Cận Bình “đảng lãnh đạo, chủ quyền thuộc về nhân dân, ỷ pháp trị quốc và đức trị”.  

Vấn đề là học giả VN "mỗi người mỗi ý". Khái niệm "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" không chỉ được diễn giải "lung tung" mà ngôn từ còn bị cắt xén ra từng khúc. 

Không biết từ khi nào cái đuôi "xã hội chủ nghĩa" bị rụng mất để trở thành "nhà nước pháp quyền". Không mấy ai còn nhớ nội hàm "pháp chế xã hội chủ nghĩa" gắn liền với "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa".

Cái đuôi thằn lằn rụng đi thì mọi người cần nhớ là con thằn lằn vẫn là con thằn lằn.

Nhưng "bi kịch" về "luật học" của VN vẫn chưa chấm dứt lúc con thằn lằn đứt đuôi. Nó chỉ mới bắt đầu.

Một số học giả VN, trong ngoài nước, lại "chặt chân" con thằn lằn đứt đuôi kia. Cái râu ria "nhà nước" đơn thuần bị "cắt" đi. Từ "pháp quyền" được khai sinh thay thế "nhà nước pháp quyền" mà mỗi người "diễn giải" ý nghĩa “pháp quyền” theo cái cách của mình.

Pháp quyền là gì ? Đố học giả VN nào định nghĩa được chữ "quyền" trong cụm từ "nhà nước pháp quyền".

Tự điển VN hiện nay không có từ "pháp quyền", theo ý nghĩa "mô hình xây dựng nhà nước trên luật pháp". 

(Trước 1975, Pháp quyền được sử dụng để dịch “juridiction”, tức là “quyền được xét xử, tức là “quyền tài phán”).

Không ai định nghĩa được “pháp quyền” là gì, chính xác là không ai có thể xác định được. Vì chữ "quyền" có rất nhiều nghĩa (vô định): thuộc về quyền lực, thuộc về pháp luật, quyền biến....

Tây phương không ai tách chữ "Droit" ra khỏi "Etat de Droit" như học giả VN. "Etat de Droit", cũng như "nhà nước pháp quyền" là từ "khái niệm", một tập hợp chữ không thể tách rời. Tách ra "Etat" có nghĩa là "quốc gia hay nhà nước", "droit" trở thành "pháp luật". Hai chữ tách rời không có chút ý nghĩa nào liên quan đến "Etat de Droit".

Con thằn lằn rụng đuôi thì vẫn là con thằn lằn. Tách "pháp quyền" ra khỏi "nhà nước", "pháp quyền" có ý nghĩa là "pháp luật".

Nhưng việc tách “pháp quyền” ra khỏi “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, hệ thống luật lệ xây dựng nhà nước của VN trở thành một “bi kịnh”.

Một bài viết mới đây của trí thức VN thấy xuất hiện cụm từ “dân chủ pháp quyền”. Bi kịch chồng lên bi kịch. Pháp quyền định nghĩa chưa xong lại nhặp nhằng vào đó khái niệm “dân chủ”.  

Khái niệm về “dân chủ” ở VN chết đi sống lại, hết lên bờ rồi xuống ruộng nhiều lần. Ngôn ngữ chính trị của CSVN “lạm phát” việc sử dụng từ dân chủ. Điều ít ai nói tới nội hàm dân chủ ở đây là “dân chủ nhân dân”, cách nói khác của “dân chủ tập trung”. 

Rốt cục “dân chủ pháp quyền” là gì vẫn không thấy ai nói tới!  

 

Từ thần linh pháp quyền...

Theo TS Nguyễn Sĩ Dũng trong bài « Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền » :

“Năm 1919, trong Bản yêu sách được Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Vecxây, yêu sách thứ 7 là pháp quyền. Sau này, yêu sách đó được Bác thể hiện thành lời ca: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (Yêu cầu ca, Báo Nhân dân, ngày 30/1/77).”

Theo TS Nguyễn Đình Lộc trong bài : « Hồ chí minh : Trăm điều phải có thần linh pháp quyền và việc xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam » :

“Cho đến nay, qua các tư liệu lịch sử có được, có thể nói, đây là lần đầu tiên trong văn học sử Việt Nam xuất hiện khái niệm “pháp quyền” và “pháp quyền” ở đây lại được nâng lên thành “thần linh” - một khái niệm linh thiêng, làm nổi bật ý nghĩa tính chất “pháp quyền”, nổi bật ý nghĩa, vai trò của pháp luật, của Hiến pháp trong đời sống xã hội.”

Như vậy nguồn gốc  từ ngữ « pháp quyền », theo các học giả trên, là của ông Hồ.

Bài vè lục bát tựa đề « Việt Nam yêu cầu ca », thực ra là bản “phóng tác” của bản yêu sách 7 điểm viết bằng tiếng Pháp « Revendications du peuple Annamite – Yêu sách của nhân dân An Nam » (mà các sử gia VN cho là của ông Hồ), viết này 18 tháng sáu năm 1919 nhân dịp Hội nghị các đại cường thắng trận Đệ Nhất thế chiến tổ chức tại Versaille. Bài vè có câu :

« Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền »

TS Nguyễn Sĩ Dũng (bài đã dẫn) nâng « pháp quyền » lên hàng « tư tưởng »:  

“tư tưởng pháp quyền đã xuất hiện trong các tác phẩm của Bác Hồ. Năm 1919, trong Bản yêu sách được Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Vecxây, yêu sách thứ 7 là pháp quyền”.

TS Nguyễn Đình Lộc nâng “pháp quyền” lên thành « khái niệm ». 

Vậy thì cái « tư tưởng » (và khái niệm về) « pháp quyền » của ông Hồ là như thế nào ?

TS Nguyễn Sĩ Dũng (không biết đã tìm đâu trong tư tưởng của ông Hồ) viết ra rằng:

 “…pháp quyền là những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ”

Còn TS Nguyễn Đình Lộc chưa chứng minh « pháp quyền » là một « Khái niệm – concept ”, thì đã viết:

“Nguyễn Ái Quốc đã tìm được cách thức bình dân, gần gũi với mọi tầng lớp nhân dân, để thể hiện một cách thật đặc sắc cái cốt lõi, tinh túy của một NNPQ: đó là tinh thần thượng tôn pháp luật mà trước hết là thượng tôn Hiến pháp. Điều này chứng tỏ, ngay từ ngày đó, tinh thần pháp quyền đã trở thành điều tâm niệm, trăn trở của tư duy sáng tạo Hồ Chí Minh.”

Có thật vậy hay không ?

Nguyên văn yêu sách số 7, bản tiếng Pháp : 

« 7/ Remplacement du régime des décrets par les régimes des lois. » (Nguồn : Les décolonisations au XXe siècle: La fin des empires européens et japonais, Par Pierre Brocheux, Annexe 1.)

Tạm dịch ra tiếng Việt là : thay thế chế độ pháp lệnh bằng chế độ luật lệ.

Bài vè phỏng lại, thành ra « Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền ».

“Xin” ở đây là “xin ai”, ai xin ? Hiến pháp này là hiến pháp nào?

Bản “yêu sách” gởi Hội nghị Versaille, nơi các cường quốc thắng trận đang hội họp. Dĩ nhiên là “xin” lãnh đạo các đại cường thắng trận, trong đó có Pháp quốc. Người xin dĩ nhiên là ông Hồ.

VN lúc đó vẫn còn là “thuộc địa” của Pháp, được Pháp cai trị dưới “chế độ pháp lệnh” (của Bộ Thuộc địa và phủ Toàn quyền), chứ không theo luật lệ (Hiến pháp) của mẫu quốc. Hiến pháp ở đây phải là hiến pháp của mẫu quốc.

Điều này sẽ rõ rệt nếu ta xét lại yêu sách thứ 2:

« 2/ Réforme de la justice indochinoise par l’octroi aux Indigènes des mêmes garanties judiciaires qu’aux Européens, et la suppression complète et définitive des Tribunaux d’exception qui sont des instruments de terrorisation et d’oppression contre la partie la plus honnête du peuple Annamite. »(Nguồn : Les décolonisations au XXe siècle: La fin des empires européens et japonais, Par Pierre Brocheux, Annexe 1.)

Tạm dịch : cải cách lại pháp lý Đông dương bằng cách ban bố cho người bản địa được bảo đảm về tư pháp (tài phán) như là người Châu Âu đồng thời bãi bỏ vĩnh viễn tất cả những loại Tòa án đặc biệt mà thực chất chỉ là những công cụ khủng bố và đàn áp thành phần những người An Nam lương thiện nhất.

Chữ « l’octroi » trong tiếng Pháp có nghĩa là « ban bố, ban phát ».

« Xin » để được « ban phát » : quyền được bình đẳng về tài phán như người Châu Âu.

« Bảy xin hiến pháp ban hành » ở đây có nghĩa là xin hiến pháp của mẫu quốc ban hành những điều « luật » để bảo đảm « quyền » của người « bản địa ».

VN lúc đó chưa lấy lại « độc lập – souveraineté » thì không thể nói « hiến pháp » trong câu này là « hiến pháp » của nước VN được.

Còn ý nghĩa của « thần linh pháp quyền » trong câu « trăm điều phải có thần linh pháp quyền » ?

Trước hết nói về ý nghĩa chữ « quyền » trong « pháp quyền ». Từ yêu sách thứ 2 ta có thể khẳng định rằng chữ quyền ở đây là quyền của « quyền lợi – right, droit » chứ không phải của « quyền lực – power, pouvoir ».

 « Pháp quyền » ở đây phải được hiểu là quyền (droit, right) của (dân bản địa) được (hiến pháp) bảo đảm bình đẳng (với dân Châu Âu) trước pháp luật.

Việc ghép chung hai từ ngữ « thần linh » và Pháp quyền » rõ là không ổn. Một bên mê tín “thần quyền”, một bên nói về quyền lợi và pháp lý của “thế quyền”. 

Tóm lại, ý nghĩa của « bảy xin hiến pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp quyền » :

Ông Hồ xin (mẫu quốc) cải cách nền pháp lý Đông dương, (ban bố hiến pháp), ra các điều luật để bảo đảm « quyền » của dân bản địa (như là người Châu Âu).

Không ai phê bình lời yêu cầu của ông Hồ trên đây là tốt hay xấu. Điều muốn nói là TS Nguyền Đình Lộc và TS Nguyễn Sĩ Dũng, trong hai bài tiêu biểu dẫn trên, đã diễn giải không phù hợp với thực tế « khái niệm » và « tư tưởng » ông Hồ về « pháp quyền ».

TS Nguyễn Đình Lộc viết trong bài dẫn trên :

“Nguyễn Ái Quốc đòi ban hành Hiếp pháp. Hiến pháp cũng là luật, nhưng là Luật cơ bản của một nước tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho toàn bộ tổ chức và hoạt động của nhà nước, và cũng không chỉ cho nhà nước mà cho cả toàn xã hội, định hình chế định cơ bản quyền con người, quyền công dân của mỗi thành viên trong xã hội.”

Ông Hồ “đòi ban hành hiến pháp”, mà hiến pháp này là  hiến pháp của nhà nước thực dân chứ đâu phải là hiến pháp của nước Việt Nam ? Xem điều 2 bản yêu sách ta thấy rõ rệt yêu cầu “cải cách pháp lý Đông dương”, cai trị dân bản địa bằng “luật” chứ không bằng pháp lệnh.

Giả sử rằng Tây thực dân “ừ” một cái, thay đổi hiến pháp, cho phép toàn dân Đông dương được quyền “ngang hàng” với dân Tây mẫu quốc. VN (và Khmer, Lào) đã trở thành một “lãnh thổ hải ngoại” của Pháp (như Tân Calédonie, Guyane…)  và các dân tộc Đông dương (kể cả VN) đã có quốc tịch Pháp hết rồi !

Ông Hồ đã mất từ lâu. Nhân chứng thì mất nhưng chứng tích thì còn.

TS Nguyễn Đình Lộc khẳng định:

“Như vậy, ý tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh được thể hiện thật rõ ràng, kiên định.”

Ông Hồ không hề có ý tưởng “lập hiến” nào cả. Ông chỉ có tinh thần “Pháp Việt đề huề”, kiên định dưới ánh sáng của bản Yêu sách. 

Gượng ép đưa vào “tư tưởng” của ông Hồ những điều ông không có, hay diễn giải sai thực chất về tư tưởng của ông Hồ, chỉ là việc giết chết ông Hồ (thêm lần nữa) bằng ngòi bút mà thôi. 


Đến “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.

Theo các văn bản ký kết giữa VN và hai quốc gia Đức và Pháp cùng thời kỳ về trợ giúp việc hoàn thiện “nhà nước pháp quyền”, ta có thể khẳng định mô hình nhà nước của VN mô phỏng theo khuôn mẫu “Etat de Droit” (etat = nhà nước; droit= pháp luật) của Pháp và Đức. Thuật ngữ « Etat de droit » tiếng Pháp - “Rechtsstaat” trong tiếng Đức, được hiểu là « État fondé sur (le respect de) la loi », có nghĩa là “quốc gia thiết lập trên nền tảng (của sự tôn trọng) luật lệ”.

Điều này cho thấy người ta không thể tự tiện tách rời “pháp quyền” ra khỏi “nhà nước”. Như đã nói trên, nếu tách ra, “pháp quyền” đơn thuần có là “droit”, tức là “pháp luật”. 

Vấn đề là chữ “quyền” có nhiều nghĩa khác nhau. Quyền có thể là “quyền lực – pouvoir, power” hoặc “quyền lợi – droit, right”. Ngoài ra chữ “quyền” còn có ý nghĩa khác thuộc các phạm trù pháp lý.

TS Nguyễn Sĩ Dũng trong bài “Nguồn cội của pháp quyền” viết:

“Vấn đề cốt lõi của pháp quyền là pháp luật về quyền. Pháp luật phân định và bảo vệ các quyền: quyền của các công dân và quyền của Nhà nước, quyền của các nhánh quyền lực Nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp.”

“Quyền” theo TS Nguyễn Sĩ Dũng là “quyền lợi – droit, right”. 

Khoan nói đến việc “Etat de Droit” có thể dịch thành “nhà nước pháp quyền” hay không. TS Nguyễn Sĩ Dũng đã dịch chữ “droit”, trong “etat de droit”, là “quyền”. Chữ “droit” trong “Etat de Droit” không thể dịch là “quyền”.

Ông Cao Huy Thuần trong bài “Nhà nước pháp quyền” , viết “Etat de Droit” là “nhà nước pháp luật”.

Ông Cao Huy Thuần dịch như thế là dịch “mot pour mot - chữ đối chữ”, chứ không dịch theo ý nghĩa của khái niệm “Etat de Droit”. Dịch lối này là chỉ nói về phần “xác” chứ không diễn tả được cái “hồn” trong khái niệm. Mà phần “hồn”, tức ý nghĩa của “Etat de Droit” là gì mới là điều cần biết.

Nhưng điều này cho thấy rằng cách dịch của TS Nguyễn Sĩ Dũng là sai. 

Chữ “droit” ở đây là “pháp luật” chứ không phải là “quyền”. Một thí dụ, người ta dịch “Faculté de Droit” thành “Luật khoa đại học đường”, hay “phân khoa Luật” (chứ không phải là “Quyền khoa đại học đường” hay “phân khoa Quyền”).

TS Nguyễn Sĩ Dũng cũng viết:

“Trong tiếng Anh, không có khái niệm "Nhà nước pháp quyền". Thay vào đó, các nước theo truyền thống Anh - Mỹ chỉ nói đến pháp quyền mà thôi. Hai từ "Nhà nước" thậm chí không được nhắc tới trong thuật ngữ này. Chính vì vậy, khi dịch khái niệm "Nhà nước pháp quyền" của ta sang tiếng Anh, bạn buộc lòng phải biến nó thành một thứ dài lê thê như sau: "Nhà nước bị điều chỉnh bới pháp quyền". Vấn đề cốt lõi của pháp quyền là pháp luật về quyền.”

Như thế TS Nguyễn Sĩ Dũng “ngắt” pháp quyền ra khỏi nhà nước rồi gán cho “pháp quyền” vào khái niệm “Rule of Law”. Vấn đề là, từ nghĩa nguyên thủy, khái niệm này nói về “luật”, (chứ không hề nói về quyền), về sự tương quan (cai trị) giữa nhà nước và người dân trong quốc gia như thế nào.

Ý kiến của ông Cao Huy Thuần trong bài đã dẫn, đã nói về chữ “quyền” trong “pháp quyền”:

“Trong ngôn ngữ của thế giới, sau Rechtsstaat, Etat de droit, Rule of Law, Việt Nam có "Nhà nước pháp quyền". Tên gọi thật hay. Vừa "pháp", nghĩa là luật pháp; vừa "quyền", nghĩa là... quyền. Chưa biết quyền của ai, nhưng chắc chắn không phải là quyền của Nhà nước, vì Nhà nước cần gì phải đòi quyền - đòi một cái đã có.”

“Quyền nghĩa là… quyền” ! Nhưng quyền có đến (ít nhất) ba ý nghĩa khác nhau:  Quyền lợi (droit, right), quyền lực (pouvoir, power) và “quyền” của pháp luật. Quyền ở đây là “quyền” nào?

Ông Nguyễn Hưng Quốc, trong bài đăng trên VOA, viết:

Sự khác biệt giữa một chế độ dân chủ và một chế độ độc tài không phải ở những cái có mà ở những cách thức thực thi những cái có ấy. Ví dụ, liên quan đến luật pháp. Một, ở các nước dân chủ, luật pháp là tối thượng. Không có ai ở trên và/hoặc ở ngoài luật pháp. Hai, ở các nước độc tài, ngược lại, luật pháp được sử dụng như một công cụ để hợp thức hóa các hành động độc quyền và trấn áp của họ: những người hoặc nguyên cả tầng lớp lãnh đạo đều ở trên và/hoặc nằm ngoài luật pháp. Trường hợp trên được gọi là pháp quyền (rule of law); trường hợp dưới gọi là pháp trị (rule by law).

Ở đây ông Nguyễn Hưng Quốc dịch “rule of law” là pháp quyền, “rule by law là pháp trị .

Điều thú vị, ba ông học giả hiểu ba cách khác nhau về ý nghĩa của chữ “Quyền”. Đồng thời, ba ông, không ông nào đồng ý với ông nào về cách dịch “Rule of Law”.

Điều này dễ hiểu. Các học giả VN trong nước đã lấy từ “pháp quyền” của ông Hồ chí minh sử dụng trong bản “yêu sách 7 điểm”, mục đích xin (mẫu quốc) cải cách nền pháp lý Đông dương, (ban bố hiến pháp), ra các điều luật để bảo đảm « quyền » của dân bản địa (như là người Châu Âu).

Trong khi thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” là một cụm từ “khái niệm”, trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể tách “pháp quyền” ra khỏi “nhà nước”.    

TS Nguyễn Sĩ Dũng diễn giải đúng nội dung chữ “quyền” theo tinh thần “xin xỏ” của ông Hồ trong bản yêu sách 1919. Nhưng không hề tương ứng với với tinh thần (luật học) của “Rule of Law” hay “Etat de Droit” ở các mô hình xây dựng nhà nước ở các xứ Âu, Mỹ được.

Ông Cao Huy Thuần chỉ nói “quyền là… quyền”.

Ông Nguyễn Hưng Quốc không nói “quyền” là gì mà chỉ dịch theo lối ”coup pour coup”, “rule by law” thành pháp trị.

Vấn đề là nhà nước nào lại không cai trị (dân chúng) bằng pháp luật ?

Ngay từ cuốn “kinh thánh” về Luật của Anh (Rule of Law) cũng viết :

“Englishmen are ruled by the law, and by the law alone; a man may with us be punished for a breach of law, but he can be punished for nothing else. (Dicey,Introduction to the Study of the Law of the Constitution, 202)”

Tạm dịch: mọi người bị cai trị bằng pháp luật, và chỉ bằng pháp luật mà thôi. Một người có thể bị (chúng ta) trừng phạt vì hành vi vi phạm luật pháp, nhưng không thể trừng phạt hắn vì lý do bất kỳ khác.

Tức là, tự thân “Rule of Law” cũng đã hàm ý nghĩa “cai trị” bằng pháp luật rồi. Vấn đề là quan hệ giữa người cầm quyền (đại diện chức năng nhà nước) với “pháp luật” là như thế nào ?

Vì vậy muốn dịch các khái niệm “Rule of Law” hay “Etat de Droit” thế nào cho chính xác, hợp lý thì ta tìm xem những nhà làm luật các xứ đó đã hiểu các khái niệm này như thế nào ?

Thí dụ lấy từ văn bản của Nghị viện Châu âu. Ở đây sử dụng hai ngôn ngữ chính : Anh và Pháp. Nền tảng pháp luật ở đây cũng chia sẻ hai khái niệm “Rule of Law” và “Etat de Droit”.

« Rule of Law » trong tiếng Anh được đối chiếu sang tiếng Pháp là « prééminence du droit ». Nghĩa tiếng Việt là « sự ưu việt của luật pháp ». (Tuy vậy, tiếng Pháp khu vực Canada thì dịch là « primauté du droit », tức là « sự ưu đẳng của luật pháp »). Ý nghĩa của hai cách dịch như vậy là tương đương với nhau.

Nghị viện cũng nhìn nhận rằng hai khái niệm « Rule of Law » và « Etat de droit » được sử dụng trên các văn bản của các nước (trong cộng đồng) có sự tương đương với nhau.

Thuật ngữ « Etat de droit », “Rechtsstaat” được hiểu « État fondé sur (le respect de) la loi ». Nghĩa tiếng Việt « quốc gia thiết lập trên nền tảng (của sự tôn trọng) luật lệ ». “Etat de droit” cũng được các định chế pháp luật Châu Âu định nghĩa như là “hệ thống định chế (xây dựng quốc gia) mà trong đó mọi quyền lực đều phải tuân theo pháp luật”. Pháp luật vượt trội (ưu việt) lên tất cả và mọi người, mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật. 

“Rule of Law” (quan điểm luật học của Anh) được các nước trong khối Châu Âu thống nhứt với ý nghĩa “sự ưu việt của pháp luật”. Tức là pháp luật đứng trên tất cả, kiểm soát và chi phối tất cả mọi vấn đề trong xã hội, kể cả “quyền lực” và việc phân bổ quyền lực. 

Hai khai niệm “Rule of Law” và “Etat de Droit” có điểm tương đồng về cơ bản: luật pháp là khuôn khổ vận hành và giải quyết mọi vấn đề quốc gia và xã hội. 

Tại miền Nam trước 1975, thuật ngữ « pháp quyền » được dịch từ « juridiction » (nay gọi là quyền tài phán). Các tự điển Pháp-Hoa trong cùng thời kỳ cũng đều dịch tương tự. 

Còn « Etat de Droit » miền Nam VN dịch là « nhà nước pháp trị ». Trung Quốc, Đài loan, Hàn quốc, Nhật… hiện nay cũng dịch như vậy. 

Tuy nhiên, nếu xét về ý nghĩa, dĩ nhiên « Etat de droit », « Quốc gia thiết lập trên nền tảng tôn trọng luật lệ », gọi là « pháp trị » thì thiếu hẵn ý nghĩa. Nhưng chắc chắn không thể dịch là « pháp quyền ». Không hề có bóng dáng chữ « quyền » (quyền lực, quyền lợi) nào trong khái niệm này để mà dịch như vậy.

Để dễ hiểu, theo tôi, ta có thể dịch là « nhà nước trọng pháp ».

Về khái niệm « Rule of Law », tức « préeminence de droit - sự ưu việt của pháp luật ». Quốc gia xây dựng lên nền tảng này thì cũng là « quốc gia thiết lập trên nền tảng tôn trọng luật lệ ». Dịch thành « pháp quyền » như ông Nguyễn Hưng Quốc rõ là không ổn. Vì ở đây nói về luật pháp và sự cai trị mà không hề nói đền « quyền lực » hay « quyền lợi ».

Theo tôi, để dễ hiểu, cũng có thể dịch là « trọng pháp », tức là “thượng tôn pháp luật”. Nhà nước xây dựng trên nguyên tắc đó là nhà nước trọng pháp.