jeudi 31 juillet 2014

Nhân 120 năm chiến tranh Trung-Nhật, nhìn lại Công ước bổ túc 1895 về biên giới Việt-Trung.

Có lẽ ít người biết rằng công ước bổ túc 1895 về biên giới giữa hai nước Việt-Trung có quan hệ (khá mật thiết) với chiến tranh Trung-Nhật. Cuộc chiến tranh Trung-Nhật tuyên bố ngày 1 tháng 8 năm 1894 và kết thúc qua hòa ước Mã Quan (Simonoseki) ngày 7 tháng 4 năm 1895.

Công ước bổ túc 1895 được ký kết ở Bắc Kinh ngày 20 tháng 6 năm 1895, giữa đại diện nhà Thanh là thân vương Cung với đại diện Pháp quốc là ông Đặc sứ Toàn quyền A. Gérard. Do vậy Công ước này còn gọi là Công ước Gérard (để phân biệt với Công ước Constans, tức Công ước phân định biên giới 26-6-1887). Nguyên nhân đưa đến việc ký Công ước bổ túc 1895 là do những sai lầm (về phân định biên giới) của Công ước 1887.

Sai lầm của Công ước phân định biên giới 1887 là đã giao toàn vùng hữu ngạn sông Mã và khu vực tả ngạn sông Đà (tức Phong Thổ) cho Trung Quốc, mà vùng này là lãnh địa của các đầu lĩnh người Thái, Mèo... (như dòng họ của Đèo Văn Trị), vốn đã thần phục triều đình An Nam từ trước đến nay.

Sau khi buộc triều đình nhà Thanh ký Hiệp ước Thiên Tân 1885, (Thanh triều phải từ bỏ mọi quan hệ với An Nam), Pháp bắt đầu đặt nền móng nhà nước thực dân lên toàn cõi Việt Nam. Việc này đòi hỏi biên giới hai bên phải được phân định rõ rệt mà việc này buộc Pháp phải « bình định » vùng biên giới Bắc Kỳ.

Công cuộc « bình định » của nhà nước thực dân gặp rất nhiều khó khăn, một mặt do sự chống đối của các lực lượng yêu nước người Việt, mặt khác, trên vùng biên giới Việt-Trung, còn có sự quấy nhiễu của những đảng cướp người Hoa (giặc cờ Đen, cờ Vàng… là tàn dư của các thế lực chống Thanh Triều như Thái Bình thiên quốc…). Song song đó, trên vùng biên giới tây-bắc, lại là lãnh địa của các đầu lĩnh (tù trưởng) người Thái, người Mèo… mà các thế lực này lúc thì theo Trung Quốc, lúc thì theo triều đình Việt Nam. Các vua chúa VN, để chiêu dụ những người này thường phong quan (hay gã con gái) cho họ để giữ yên bờ cõi. Trên thực tế, dân địa phương ở các vùng này sống « tự trị », không chịu ảnh hưởng của triều đình Trung Hoa cũng như VN.

Từ khoảng những năm 1886-1892, việc bình định vùng biên giới của nhà nước thực dân luôn gặp thất bại do chủ trương sử dụng vũ lực để đàn áp. Chỉ đến năm 1893, phương pháp « chiến tranh tâm lý » theo lối « chiêu dụ » được áp dụng, việc bình định mới thành công. Các đầu lĩnh (thổ ti) người Thái, Mèo... về hàng phục Pháp. Đổi lại, những người này được Pháp hứa hẹn sẽ bảo vệ cho gia đình, giòng tộc của họ.

Năm 1893, việc phân giới cắm mốc (theo tinh thần Công ước 1887) bắt đầu thực hiện trên khu vực biên giới Vân Nam.

(Công ước 1887 phân chia vùng biên giới Vân Nam với VN thành 5 đoạn. Đoạn thứ 5 tương ứng với đoạn từ sông Hồng đến biên giới Lào).

Những quân nhân Pháp phụ trách việc phân giới nhận ra rằng công ước 1887 đã nhượng cho Trung Hoa lãnh địa của các đầu lĩnh người Thái, Mèo, Tày, Nùng… đã thần phục Pháp, trong đó có lãnh địa của đầu lĩnh Đèo Văn Trị, người Thái, lãnh đạo một dòng tộc có thế lực lớn. Tức là vùng toàn vùng hữu ngạn sông Đà, gồm Lai Châu, từ Mường Tè cho tới Điện Biên, trên bản đồ hôm nay, thuộc về Trung Hoa. Viên quan phụ trách phân giới (đại tá Servière) quyết định ngưng công việc, vì sợ gặp sự chống đối từ phía dân địa phương.

Ông này gởi công văn về Paris cảnh cáo rằng, nếu thực thi công ước 1887 thì vấn đề an ninh của Bắc Kỳ sẽ không bảo đảm được. Ông này cho biết, để chiêu dụ được những đầu lĩnh này, họ đã nhân danh nước Pháp cam kết bảo vệ họ. Mà tục lệ của những dân tộc thiểu số sống vùng biên giới phía tây của VN, khi thần phục ai thì sáp nhập lãnh địa của họ vào nước đó. (Do việc này mà quân đội của Pháp ở Đông Dương sau này có nhiều đạo binh người Thái, Nùng... rất trung thành với Pháp. Việc bình định, sau này là giữ an ninh biên giới, là nhờ ở các đạo quân người Thái, Nùng... Đến khi quân viễn chinh của Pháp rút về nước năm 1954, những người này (cùng gia đình) cũng đi theo, vì sợ bị trả thù nếu ở lại.)

Do đó hành vi giao các vùng đất này cho Trung Hoa là có ý nghĩa phản bội lại các cam kết mà Pháp đã hứa hẹn.

Nội dung tờ báo cáo của viên chỉ huy trưởng đạo Văn Bu (thuộc quân khu 4):

« Công Ước Constans đã nhượng cho Trung Hoa toàn vùng hữu ngạn sông Mã và trọn vùng tả ngạn sông Ðà, phía trên Lai Châu, mà đây là cái nôi của dòng họ Ðèo Văn Trị. Trên thực tế chúng ta kiểm soát vùng này và chính quyền Trung Hoa không hề có thái độ nào phản đối. Nhưng nếu chúng áp dụng công ước, phân định biên giới, thì vùng này phải chia ra làm hai. Nếu phải nhượng (cho Trung Hoa) vùng đất này, không những chúng ta làm tổn hại về quyền lợi mà còn xúc phạm đến danh dự của Đèo Văn Trị. Chúng ta làm việc với ông nầy từ một năm nay và xem như là người bảo vệ biên giới. Khi chúng ta phong ông ta làm Quan Ðạo vùng nầy, chúng ta đã có quan hệ vĩnh viễn với ông ấy. Nếu cắt vùng nầy ra làm hai, chúng ta tự xóa bỏ uy danh của mình mà ở xứ rộng lớn và khó khăn nầy, chúng ta chỉ giữ được là nhờ ở cái uy danh và sự gan dạ của mình. »
(Thư của ông Thirion, tiểu đoàn trưởng chỉ huy « cercle Văn Bu », khu vực tả ngạn sông Đà và thuợng lưu sông Mã (Phong Thổ), gởi Chỉ huy trưởng khu 4 quân sự (cuối năm 1891). Tài liệu CAOM (năm 1891, carton 65357, Indo, GGI) :

Phe quân nhân trong chính trường Paris làm áp lực, cho rằng không thể thi hành Công ước 1887. Nếu công ước này thi hành sẽ không giữ được Bắc Kỳ. Trong khi phe ngoại giao thì không có lý do nào để đặt lại nội dung Công ước 1887 với Thanh triều ở Bắc Kinh.

Việc kết thúc chiến tranh giữa Nhật và Trung Hoa tháng 4 năm 1895 mở ra cho Pháp một cơ hội để sửa chữa sai lầm của công ước 1887.

Sau khi thua Nhật phải ký hiệp định Mã Quan 1895, Thanh triều phải bồi thường cho Nhật trên 200 triệu lạng bạc, là con số khổng lồ vào thời đó. Pháp liền chụp lấy cơ hội, đề nghị cho Thanh triều vay với lãi suất nhẹ. Nhà Thanh chấp thuận đề nghị, đổi lại, công ước 1887 sẽ được điều chỉnh lại, sao cho các vùng đất của các tù trưởng người Thái, Mèo thuộc về Bắc Kỳ. Tuy vậy, để cho các quan chức địa phương ở Vân Nam không bất bình, Bắc Kinh đòi Pháp phải nhượng lại một vùng đất như là vật trao đổi. Vùng đất của VN (Mường Tung) thuộc tổng Phương Độ (thuộc tỉnh Hà Giang hiện nay) vì vậy phải nhượng lại cho Vân Nam.

Việc trao đổi này phía VN được lợi về mặt diện tích nhưng bị thiệt hại về mặt kinh tế. Vùng đất mà VN phải nhượng nổi tiếng có nhiều hầm mỏ quan trọng (vì kế cận vùng Tụ Long, cũng nhượng cho TQ theo công ước 1887).

Việc thay đổi biên giới có thể trình bày theo nội dung các công ước và các bản đồ đính kèm sau đây :

Nguyên văn công ước 1887, đoạn biên giới thứ 5, khu vực Vân Nam :

A partir de Long-pô-tchaï (5e section), la frontière commune du Yunnan et de l’Annam remonte le cours du Long-po-hô jusqu’à son confluent avec le Ts’ïng-choueï-hô, marqué A sur la carte ; du point A, elle suit la direction générale du N.E au S.O jusqu’au point indiqué B sur la carte, endroit où le Saï-Kiang-hô reçoit le Mien-choueï-ouan. Dans ce parcours, la frontière laisse à la Chine le cours du Ts’ïng-choueï-hô.

Du point B, la frontière à la direction est-ouest jusqu’au point C, où elle rencontre le Teng-tiao-tchiang au-dessous de Ta-chou-tchio . Ce qui est au sud de cette ligne appartient à l’Annam, ce qui est au nord à la Chine.

Du point C, elle redescend vers le sud, en suivant le milieu de la rivière Ting-tiao-tchiang jusqu’à son confluent au point D avec le Tsin-tse-ho.

Elle suit ensuite le milieu du Tsin-tse-hô pendant environ 30 lis et continue dans la direction est-ouest jusqu’au point E où elle rencontre le petit ruisseau qui se jette dans la rivière noire (Heï-tciang ou Hac-giang) à l’est du bac de Meng-pang. Le milieu de ce ruisseausert de frontière du point E au point F.

A partir du point F, le milieu de la rivière noire sert de frontière à l’ouest.

Bản đồ đính kèm công ước :

bandobiengioi 011

Nội dung công ước cũng như bản đồ đính kèm, đoạn thứ 5 biên giới Vân Nam, tức đoạn từ sông Hồng đến biên giới Lào, hoàn toàn không phù hợp trên thực tế với những cái tên con sông không có thên thực địa, hay những con sông vẽ trên bản đồ không hề đúng với vị trí cũng như dòng chảy trên thực địa. Điều quan trọng nhất là câu « A partir du point F, le milieu de la rivière noire sert de frontière à l’ouest – từ điểm F, đường trung tuyến sông Đà là đường biên giới phía tây » mà điều này hoàn toàn không đúng trên thực tế thời đó.

Nguyên văn Công ước bổ túc 1895 gồm hai phần : 1/ mô tả đường biên giới trong vùng (phần đất) của VN nhượng cho TQ và 2/ mô tả đường biên giới phía hữu ngạn sông Hồng.

Đường biên giới vùng đất của VN nhượng cho TQ được mô tả như sau :

« La ligne frontière part du point R, se dirige au nord-est jusqu’à Man-Mei, et suivant la direction ouest-est jusqu’à Nam-Ta sur le Tsing-Chouei-Ho, laissant Man-Mei à l’Annam et les territoires de Mong-Tong-Chang-Ts’ouen, Mong-T’ong-Chan, Mong-T’ong-Tchong-Tsouen, Mong-T’ong-Hia-T’ouen à la Chine. »

Tạm dịch : « đường biên giới từ điểm R đi về hướng Ðông-Bắc cho tới Man-Mei; sau đó từ Man-Mei theo hướng Tây-Ðông cho tới Nam-Ta, để lại An-Nam Man-Mei và Mường Tung thượng thôn. Mường Tung Sơn, Mường Tung trung thôn, Mường Tung hạ thôn để lại cho Trung Hoa. »

Đường biên giới phía hữu ngạn sông Hồng thì được xác định lại theo biên bản và bản đồ dưới đây, theo đó lãnh thổ Bắc Kỳ mở ra cho tới sông Cửu Long :

« La frontière commune du Yun-Nan et de l’An-Nam entre la rivière Noire à son confluent avec le Nam-Nap et le Mékong , est tracé ainsi qu’il suit : A partir du confluent de la Rivière Noire et du Nam-Nap, le frontière suit le cours du Nam-Nap jusqu’à sa source, puis, dans la direction Sud-Ouest la chaine de partage des eaux jusqu’aux sources du Nam-Kang et du Nam-Hou.

A partir des sources du Nam-Hou la frontière suit la chaine de partage des eaux entre le bassin du Nam-hou et le bassin du Nam-La, laissant à la Chine , à l’Ouest, Ban-Noi, O-Pang, O-Hou, les six montagnes à thé, et à l’Annam, à l’Est, Muong-Wou et Wou-Te et la confédération des Hua-panh-ha-tang-hoc. La frontière suit la direction Nord-Sud, Sud-Est jusqu’au sources du Nan-Suo-Ho ; puis elle contourne, par la chaine de partage des eaux, dans la direction Ouest Nord-Ouest, les vallées du Nan-Suo-Ho et les affluents de gauche du Nam-La jusqu’au confluent du Mékong et du Nam-La, au Nord-Ouest de Muong-Pou. Le territoire de Muong-Mang et de Muong-Joueun est laissé à la Chine. Le territoire des Huit sources salées (Pa-Fat-Sai) demeure attribué à l’Annam ».


Tạm dịch : « Ðường biên giới giữa Vân Nam và An Nam từ hợp lưu của sông Ðà với sông Nậm Nạp cho đến sông Cữu Long được định như sau : Từ hợp lưu sông Ðà với sông Nậm Nạp, đường biên giới theo sông Nậm Nạp cho đến nguồn, sau đó, theo hướng Tây Nam, đường phân thủy, cho đến nguồn của sông Nam-Kang và Nam-Hou.

Từ nguồn của sông Nam-Hou, đường biên giới theo đường phân thủy giữa lưu vực sông Nam-Hou và sông Nam-La, nhường cho Trung Hoa, phía Tây, Ban-Noi, O-Pang, O-Hou, sáu núi trà, và nhường cho An Nam, phía Ðông, Muong-Hou và Wou-Te cùng với « confédération Hua-Panh-ha-tang-hoc ». Ðường biên giới theo hướng Bắc Nam, Tây Nam cho tới nguồn của Nan-suo-Ho và hợp lưu tả ngạn sông Nam-La cho tới hợp lưu sông Cữu-Long và sông Nam-La, phía Tây-Bắc của Muong-Pou. Vùng đất Muong-Man và Muong-Joueun thì để cho TQ. Vùng đất Tám Mỏ Muối (Pa-Fat-Sai) thì để cho An-Nam».

bandobiengioi 008

Các cột mốc hữu ngạn sông Hồng :

Từ Sông Hồng đến sông Ðà (Rivière Noire) thì không cắm mốc. Từ sông Ðà đến biên giới Lào có 4 cột mốc được cắm theo thứ tự từ Ðông sang Tây. Theo các biên bản viết bằng tiếng Việt, vị trí các cột mốc được ghi lại như sau : Cột thứ 1 ở miệng núi Phúc Ngỏa, cột thứ 2 ở miệng núi Chỉ Sưởng, cột thứ 3 giáp Mường La và Mường Bun, cột thứ 4 ở cửa trại Sông Mặc Ô. « Miệng núi » có nghĩa là đèo (col).


Troupe de l’Indochine
1er territoire Militaire
Cercle de Lao-Kay

Col de Tchou-Oua le 16 mars 1896

Le 16 mars 1896 (le trois du deuxième mois annamite) en présent de Monsieur Lin-Cheu-Yin, et le Monsieur Ouan-Tin-Tsan officiers délégués par le gouvernement chinois et le monsieur Pasquier (Gaston Louis , Félix Paul) sous-lieutenant à la 7e compagnie du 1e régiment de Tirailleurs Tonkinois une borne frontière a été placée au col de Tchou-Oua au point déterminé par la commission de délimitation, et indiqué sur les cartes annexées à cette convention.
Cette borne porte le numéro un.
Le Sous Lieutenant
Pasquier (signé)


Biên-bản cột thứ 1

Ngày 17 tháng 3 năm 1896 Tây là ngày 8 tháng 2 năm Bính-Thân An-Nam.

Nước Ðại-Thanh sai hai người Ðại Lão Da. Một người tên Lâm Thế Ấn và một người tên Văn Ðình Toản, cùng với quan Một Khuyên nước Ðại Pháp tên là Ba-Kiệt coi lính Tập xứ Bắc-Kỳ, cơ thứ 7, vệ thứ 1 đi giựng bia đất cõi, nước Ðại-Chiều và Nước Tiểu-Chiều.

Quan Tổng-Lý Ðại Thần nước Ðại-Thanh sai hai người Ðại Lão Da, một người tên là Lâm Thế Ấn và một người là Lâm Ðình Toản, mang một bức địa-đồ đi chia đất cõi giựng bia, bia thứ 1 ở miệng núi Phúc Ngõa.

Ngày 3 tháng 2 năm Quang-Tự thứ 22.
Ký tên Lâm Thế Ấn và Văn Ðình Toản.

5e section borne N° 1

Biên bản cột thứ 2

Tiếng Pháp :

Troupe de l’Indochine
1er territoire Militaire
Cercle de Lao-Kay

Col de Tchou-Tchang le 14 mars 1896

Le 14 Mars 1896 (le premier jour du deuxième mois annamite), en présent de Monsieur Lin-Cheu-Yin , et de Monsieur Ouan-Tin-Tsan officiers délégués pour le gouvernement Chinois, et de Monsieur Pasquier Gaston Louis Félix Paul Sous-lieutenant à la 7e Compagnie du 1er Régiment de Tirailleurs Tonkinois, une borne frontière a été placé au col de Tcheu Tchang, au point déterminé par la commission de délimitation, a indiqué sur les cartes annexées à cette convention.
Cette borne porte le numéro deux.

Le Sous-Lieutenant

(signature Pasquier)
Tiếng Việt :

Ngày 14 tháng 3 năm 1896 Tây là ngày 30 tháng 1 năm Bính-Thân An-Nam.

Nước Ðại-Thanh sai hai người Ðại Lão Da. Một người tên Lâm Thế Ấn và một người tên Văn Ðình Toản, cùng với quan Một Khuyên nước Ðại Pháp tên là Ba-Kiệt coi lính Tập xứ Bắc-Kỳ, cơ thứ 7, vệ thứ 1 đi giựng bia đất cõi, nước Ðại-Chiều và Nước Tiểu-Chiều.

Quan Tổng-Lý Ðại Thần nước Ðại-Thanh sai hai người Ðại Lão Da, một người tên là Lâm Thế Ấn và một người là Lâm Ðình Toản, mang một bức địa-đồ đi chia đất cõi giựng bia, bia thứ 2, ở miệng núi Chỉ-Sưởng.

Ngày 3 tháng 2 năm Quang-Tự thứ 22.

Ký tên Lâm Thế Ấn và Văn Ðình Toản.

5e section borne N°2

Biên bản cột thứ 3

Ngày 26 tháng 3 năm 1886, Tây

Ngày 12 tháng 2 năm Bính-Thân, An-Nam.

Nước Ðại-Thanh sai tên Kha Thụ Huân là Ðại Lão Da, cùng với Quan Ba Khuyên nước Ðại-Pháp, để giựng bia đất cõi nước Ðại-Chiều và nước Tiểu-Chiều,
Quan Tổng-Lý Ðại Thần nước Ðại-Thanh sai tên Kha Thụ Huân là Ðại Lão Da, mang một cái địa-đồ đi chia đất cõi giựng bia, quan Tổng-Lý Ðại Thần nước Ðại Pháp sai quan Ba Khuyên mang một cái địa-đồ đi chia đất cõi giựng bia, bia thứ 3 giáp Mường La và Mường Boun.

Ký tên Kha Thụ Huân.

5e section borne N°3

Biên bản cột thứ 4

Ngày 13 tháng 3 năm 1886, Tây

Ngày 4 tháng 2 năm Bính-Thân, An-Nam.

Nước Ðại-Thanh sai tên Kha Thụ Huân là Ðại Lão Da, cùng với Quan Ba Khuyên nước Ðại-Pháp, để giựng bia đất cõi nước Ðại-Chiều và nước Tiểu-Chiều,
Quan Tổng-Lý Ðại Thần nước Ðại-Thanh sai tên Kha Thụ Huân là Ðại Lão Da, mang một cái địa-đồ đi chia đất cõi giựng bia, quan Tổng-Lý Ðại Thần nước Ðại Pháp sai quan Ba Khuyên mang một cái địa-đồ đi chia đất cõi giựng bia, bia thứ tư ở cửa trại Sông Mặc Ô.

Ký tên Kha Thụ Huân.

5e section borne N°4

Sơ đồ vị trí các cột mốc:

5e section - sơ đồ vị trí các cột mốc

dimanche 27 juillet 2014

Việt Nam nên hay không đứng đơn cùng với Phi để kiện TQ ?




Ngày 23 tháng 6 vừa qua Việt Nam đã chính thức ký nhận thẩm quyền của Tòa Trọng tài Thường trực (Cour Permanente d’Arbitrage - CPA). Việt Nam đã là thành viên của Tòa từ các năm 2011 và 2012, sau khi ký nhận các công ước nền tảng của Tòa (các công ước 1899 và 1907). Việc nhìn nhận thẩm quyền của Tòa là một thủ tục pháp lý bắt buộc, tiên khởi cho mọi toan tính kiện tụng của một quốc gia. Việc này cho thấy sắp tới, Việt Nam có thể sẽ đưa các tranh chấp (với Trung Quốc) về chủ quyền biển, đảo… trước Tòa CPA, nếu những thuơng thuyết song phương vẫn tiếp tục bế tắc như hiện nay.


Một số tin tức hành lang (nhân vụ TQ đặt giàn khoan 981) cho biết là có thể VN sẽ cùng đứng tên chung với Phi để kiện TQ trước một trọng tài quốc tế do yêu sách của nước này trên Biển Đông. Đây cũng là điều mà một số học giả VN trước đây đã khuyến cáo.


Tôi cho rằng VN cần phải tính toán lại khi đứng chung đơn với Phi. Mục tiêu của VN và Phi có thể tương đồng trong một số điểm (như chống lại yêu sách đường chữ U của TQ), nhưng lại đối nghịch nhau ở một số điểm khác mà điều này (trước tòa) chỉ đem lại bất lợi cho phía VN.  


Theo tôi một số điều VN cần phải cân nhắc, (thậm chí phải điều chỉnh) lại trước khi quyết định hợp tác với Phi :


1/ Mâu thuẩn về quan điểm chủ quyền :


Tuyên bố năm 1951 của Chu Ân Lai, bên lề hòa ước San Francisco : « Quần đảo Tây Sa và đảo Nam Uy cũng như các quần đảo Nam Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Đông Sa, là lãnh thổ của TQ ».


(Trung Sa là tên của TQ để chỉ bãi Hoàng Nham và Macclesfield.)


Gọi tuyên bố này là « bên lề » vì TQ không được mời tham dự Hội nghị San Francisco. Tuy vậy tuyên bố này được Liên Xô và các nước phe XHCN ủng hộ. Đại diện của Liên Xô tại Hội nghị có đưa một kiến nghị để bênh vực quyền lợi của TQ, (như đề nghị HS và TS trả cho TQ), nhưng bị đa số thành viên tham gia Hội nghị bác bỏ).


Đến năm 1958 Trung Quốc lại ra tuyên bố về lãnh hải: « Độ rộng lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý. Qui định này áp dụng cho toàn lãnh thổ Trung Hoa, bao gồm phần đất trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi… quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa… ».


Việt Nam (và các nước thuộc khối XHCN) ủng hộ tuyên bố này.


Tức là VN mặc nhiên nhìn nhận các bãi Hoàng Nham và Macclesfield thuộc về TQ đồng thời các bãi này có lãnh hải 12 hải lý.


Một số điều phi lý trong tuyên bố của TQ, đáng lẽ cần phải được minh bạch :


Bãi Macclesfield vốn là một bãi chìm dưới mặt nước (từ 50 mét trở lên) trong khi bãi Scarborough vốn là một bãi cạn, chỉ có vài đá nổi lên mặt nước. TQ nhập hai thực thể địa lý này vào thành một  « quần đảo – archipel » thực là không ổn chút nào.


Trên quan điểm địa mạo, hai bãi này (một bãi là bãi ngầm chìm dưới mặt nước, một bãi gồm ám tiêu, đá…) không có cấu trúc nào có thể được gọi là « đảo » theo qui ước của quốc tế. Trên phương diện địa lý, hai bãi này hoàn toàn tách biệt nhau, cách nhau đến 318 Km, thiếu sự liên tục của thềm lục địa. Tức là, chúng vừa không có tính « quần » lẫn tính « đảo ». Mặt khác, theo các nguyên tắc về chiếm hữu lãnh thổ, một quốc gia chỉ có thể chiếm hữu một « lãnh thổ » nếu lãnh thổ này thật sự hiện hữu. Một bãi ngầm, thường xuyên chìm sâu dưới nước như bãi Macclesfield, thì không thể xem đó là một « lãnh thổ » để có thể chiếm hữu được.


Về địa danh cũng vậy. Trong các địa chí của Trung Quốc in trước năm 1935, bãi Scarborough được ghi bằng tên quốc tế, với ghi chú tiếng Hoa là « Nam Sa quần đảo ». Đến năm 1947 bãi này được đặt là « Dân Chủ đảo – Minzhu jiao », thuộc về « Trung Sa quần đảo ».


Tức là, đến năm 1935, cái mà Trung Quốc gọi là Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam hiện nay), là bãi cạn Scarborough. Chỉ đến năm 1947 họ mới « khai sinh » ra tên Trung Sa, sau đó lấy tên Nam Sa đặt cho quần đảo Trường Sa. Từ đó mới ra mặt tranh chấp với Việt Nam (trước đó hai bên chỉ có tranh chấp về Hoàng Sa).


Đến năm 1983 thì bãi Scarborough đổi tên lại thành « Hoàng Nham – Huangyan ».
Có nghĩa là « Trung Sa quần đảo » của TQ vừa không phù hợp với địa lý trên thực tế (không là đảo mà cũng không là quần đảo), lại vừa không rõ rệt về địa danh. Trong khi một phần của « quần đảo » này là bãi Macclesfield thì không thể chiếm hữu.


Vấn đề là Việt Nam đã ra tuyên bố « công nhận » và « ủng hộ » tuyên bố hải phận 12 hải lý của TQ trên « quần đảo » này.


Hành động đứng chung với Phi trong vụ kiện TQ, VN mặc nhiên là ủng hộ lập trường của Phi tại bãi Hoàng Nham.


Về phương diện công pháp quốc tế, VN không thể đi ngược lại lập trường mà « quốc gia » VNDCCH đã bày tỏ trước kia. (Dĩ nhiên nếu vẫn nhìn nhận VNDCCH là một quốc gia độc lập, có chủ quyền).
2/ Vấn đề hiệu lực các đảo :


Luật quốc tế về Biển 1982 đã có một lỗ hổng pháp lý rất lớn do không có những định nghĩa rõ ràng về hiệu lực ZEE (vùng kinh tế độc quyền) cho các đảo.


Điều 121 Luật Biển nói về hiệu lực lãnh hải và vùng ZEE của các đảo :


« Các đảo có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng ZEE và thềm lục địa như là lãnh thổ trên đất liền, ngoại trừ các đảo đá không thích hợp cho đời sống con người và không có nền kinh tế tự túc. »


Như vậy diện tích lớn nhỏ của một đảo không phải là tiêu chuẩn để một đảo có hay không có hiệu lực ZEE 200 hải lý.


Điều kiện để một đảo có hiệu lực như đất liền (tức là có lãnh hải 12 hải lý, vùng kinh tế độc quyền ZEE và thềm lục địa 200 hải lý) là ba yếu tố: không phải là đảo đá, thích hợp cho người sinh sống và có nền kinh tế tự túc.


Vấn đề là hai yếu tố « thích hợp cho người sinh sống » và « có nên kinh tế tự túc » là không bất biến.


Ngày xưa một đảo nhỏ (như một số đảo thuộc Hoàng Sa hay Trường Sa) không phù hợp cho đời sống con người. Nhưng bây giờ, nhờ tiến bộ khoa học kỷ thuật, các đảo nhỏ đó có thể trở thành nơi trú ẩn cho con người. (Trường hợp xây dựng tại đây nhà máy lọc nước biển, nhà máy phát điện từ ánh sáng mặt trời…) Các đảo này cũng có thể tạo ra nhiều nguồn kinh tế tự tại, như sau khi lập kỹ nghệ du lịch, khai thác tài nguyên dầu khí, đánh cá…


Tức là, (nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật), một đảo rất nhỏ cũng có thể cho con người sinh sống và có thể tạo ra một nền kinh tế tự túc.


Nếu vậy các đảo nhỏ này có đủ tiêu chuẩn như định nghĩa của Luật Biển, để dành một vùng ZEE và thềm lục địa lên đến 200 hải lý, như là từ đất liền.


Ý thức được như vậy, việc lựa chọn chế độ cho các đảo (là đảo hay đá) là một lựa chọn chiến lược. Nhất là các đảo nhỏ thuộc HS và TS.


Tùy theo quốc gia có hay không có chủ quyền tại HS và TS, ta thường nghe các lập luận trái ngược nhau về hiệu lực các đảo tại đây.


VN đã tuyên bố lập trường qua tuyên bố 12-5-1977 của chính phủ CHXHCNVN, theo đó các đảo HS và TS có hiệu lực về lãnh hải, hải phận, thềm lục địa… theo qui định của Luật quốc tế.


Hồ sơ kiện của Phi (công bố trước dư luận) không có điều nào yêu cầu Tòa phán liên quan đến hiệu lực các đảo. Nhưng không có gì chắc chắn là việc này không thay đổi ở phút chót. Giờ chót, trước Tòa, Phi có thể yêu cầu Tòa tuyên bố các thực thể địa lý ở Trường Sa không phải là « đảo » mà là « đá ».


Nếu điều này xảy ra, Phi sẽ đưa VN vào thế « việt vị ». (Do hồ sơ về chủ quyền « rất yếu », Phi (cũng như Mã Lai, Brunei và Nam Dương) có khuynh hướng hóa giải hiệu lực của tất cả các đảo ở TS.)


Nếu Tòa im lặng (không tuyên bố) về yêu cầu này VN sẽ lâm vào tư thế không thoải mái. VN không thể trở lại lập trường trước kia của mình nữa, trong khi quan điểm về hải phận các đảo của phía TQ thì được củng cố.


Nếu Tòa tuyên bố các đảo này là đảo đá thì phía VN lại mâu thuẩn với lập trường của mình đã tuyên bố trước kia (qua tấm bản đồ các lô dầu khí năm 1988).


Trong khi VN cần một « điểm mờ chiến lược » (ai muốn hiểu sao thì hiểu) về hiệu lực các đảo HS và TS để có thể thuơng thuyết với các bên về hải phận một cách có lợi cho mình.


3/ Việt Nam có lợi hơn nếu không đứng chung đơn với Phi để kiện TQ.


Điều quan trọng là Tòa có thẩm quyền để xử vụ kiện này hay không ?
Nếu có, xác suất Tòa tuyên bố cho Phi thắng là khá cao. VN được hưởng lợi tương tự như Phi. Một trong các yêu cầu Tòa tuyên bố (có lợi cho VN) là : yêu sách đường 9 đoạn của TQ là vô giá trị.


Nhưng không thể không loại trừ trường hợp Tòa không có thẩm quyền để phân xử. Xác suất cho việc này cũng không hề nhỏ.


Lý lẽ của TQ đưa ra (từ chối trả lời vụ kiện của Phi), qua tuyên bố của Đại sứ Wang Min trước Đại hội đồng LHQ lần thứ 68 về « pháp trị trên bình diện quốc gia và quốc tế ». Theo đó TQ cho rằng họ có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp với luật quốc tế, cũng như có quyền không chấp nhận bất kỳ biện pháp giải quyết mang tính ép buộc đến từ bất kỳ quốc gia nào.


Một số chuyên gia quốc tế cho rằng lập luận của TQ là thuyết phục. Bởi vì, TQ là một nước độc lập có chủ quyền. Từ sự bình đẳng về chủ quyền (quyền chủ tể) giữa các quốc gia, cũng là nền tảng của quốc tế công pháp, TQ có quyền từ chối mọi hình thức ép buộc nào, từ một quốc gia hay một tổ chức quốc tế.


Nếu việc này xảy ra, Tòa không có thẩm quyền xét xử, lập trường (cho dầu sai trái) của TQ tại Biển Đông sẽ được củng cố. Điều này có nghĩa VN (cũng như Phi) sẽ lâm vào thế khó, bởi vì sẽ phải thuơng lượng song phương với TQ.


Vì thế VN cần đứng ngoài vụ kiện giữa Phi và TQ để giữ một khoảng cách chiến lược về pháp lý. Nếu Phi thắng kiện, thì VN cũng thắng. Hiệu lực phán quyết của Tòa không dành riêng cho Phi, mà áp đặt (chế tài) các qui cách về hiệu lực các đảo tại biển Đông cho phía TQ.


VN có thể lập hồ sơ riêng để « kiện » TQ, nhưng không theo kiểu mẫu của Phi, như có đề nghị ở đây. Vì việc trước mắt của VN là Hoàng Sa chớ không phải là Trường Sa.

dimanche 20 juillet 2014

Về bài trả lời của Luật sư Nguyen Le-Ha.

Cám ơn Luật sư đã trả lời các câu hỏi của tôi. Dĩ nhiên, khi những dòng chữ này được viết ra, có nghĩa là các câu trả lời của LS, với tôi là chưa được thỏa đáng.


1/ Trong câu hỏi 1 của tôi, về « tư cách pháp nhân », thì đương nhiên chỉ nhà nước CHXHCNVN hôm nay mới có tư cách pháp nhân để kiện về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu câu hỏi đặt ra như vậy (rồi thôi) thì hỏi chi cho mất công ?


Có thể cách đặt câu hỏi của tôi hơi phức tạp vì đưa ra nhiều dữ kiện (làm cho Luật sư rối trí), nhưng nếu chịu khó đọc hết thì sẽ biết tôi hỏi về cái gì ? Nội dung chính câu hỏi của tôi là ở chỗ :


« quốc gia CHXHCNVN hoàn toàn xa lạ với VNCH (là một quốc gia độc lập có chủ quyền, như lập luận của Luật sư), thì tư cách gì có thể kiện TQ về tranh chấp Hoàng Sa ? »


Đến hôm nay, các học giả VN, cũng như Luật sư trong bài trả lời này, chưa ai giải thích được ổn thỏa câu hỏi : nhà nước CHXHCNVN đã kế thừa Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng hòa bằng cách nào ?


Một số điều, nhân tiện đây, tôi bổ túc thêm để cho mọi người thấy vấn đề kế thừa Hoàng Sa sẽ lâm vào bế tắc, nếu VN hiện nay chủ trương hai thực thể chính trị VNCH và VNDCCH là hai quốc gia.


Mọi người cho rằng CP LTCHMNVN kế thừa Hoàng Sa từ VNCH. Tôi đặt vấn đề : làm sao chính phủ này có thể « kế thừa » một lãnh thổ đã bị mất ?


Theo quốc tế công pháp, từ đầu thế kỷ 20 đến nay, danh nghĩa chủ quyền lãnh thổ không thể thiết lập bằng phương cách sử dụng vũ lực. Tức là, nếu « quốc gia » VNCH không bị giải thể (hay được kế thừa), thì cho dầu TQ trên thực tế chiếm hữu được vùng lãnh thổ này, danh nghĩa chủ quyền của nó vẫn do VNCH nắm giữ.


Nhưng nếu VNCH bị giải thể, không có kế thừa, thì vùng lãnh thổ này sẽ mất vĩnh viễn vào tay TQ.


Theo tập quán quốc tế (về quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia), khi quốc gia có thay đổi chính thể do biến động chính trị (do đảo chánh, cách mạng …), hay một quốc gia mới được khai sinh (do thống nhất hai quốc gia hay hai vùng lãnh thổ, quốc gia ly khai…), nội hàm của « chủ quyền – souveraineté » thay đổi, việc kế thừa quốc gia sẽ phải đặt ra. CHXHCNVN nằm trong trường hợp này.


Điều 1 của Nghị quyết của LHQ cho biết ý nghĩa của việc « kế thừa quốc gia » :


« Sự kế thừa của quốc gia là sự thay thế quốc gia đó trong trách nhiệm về những quan hệ quốc tế liên quan đến lãnh thổ. »


CP LTCHMNVN, sau 1975, đã thể hiện những hành vi nào để kế thừa « danh nghĩa chủ quyền » Hoàng Sa từ « quốc gia » VNCH ?


Câu trả lời (thê lương) là không có điều gì cả ! Không có thủ tục bàn giao chính quyền thì không có kế thừa. VNCH bại trận, lãnh thổ do VNCH kiểm soát đơn thuần trở thành lãnh thổ của CHMNVN.


Thực thể MTGPMN trên thực tế chỉ là một sản phẩm chính trị của VNDCCH dựng lên nhằm thôn tính VNCH. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được khai sinh ngày 20-12-1960, theo nghị quyết của của Đại hội đảng toàn quốc lần thứ ba của đảng CSVN (lúc đó là đảng Lao Động), được đặt dưới sự lãnh đạo của bộ Chính trị đảng CSVN và Trung ương cục miền Nam. Dữ kiện này mọi người có thể vô Google đánh các chữ MTGPMN thì sẽ thấy kết quả. Tức dữ kiện này đã trở thành một « bằng chứng » pháp lý không thể phản bác : MTGPMN cũng như VNDCCH đều có chung một lãnh đạo.


CHXHCNVN thành hình do thống nhất hai « quốc gia » VNDCCH và CHMNVN. VNDCCH đã nhìn nhận HS và TS của TQ. Còn CHMNVN thì « im lặng » giới nghiêm ! CHXHCNVN kế thừa cái gì ở Hoàng Sa từ VNCH ?


Về vấn đề kế thừa VNCH, học giả Joële Nguyên Duy-Tân ([i]) có đặt vấn đề :


« La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement l'existence d'un Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N. peut-elle succéder à une entité inexistante pour elle?


Tạm dịch : VNDCCH luôn cương quyết phủ nhận sự hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức VNCH. CHXHCNVN có thể kế thừa một thực thể mà họ đã quan niệm là không hiện hữu ?


Tài liệu thuộc Bộ Ngoại giao Pháp ([ii]), ngày 9-9-1978, cho thấy CHXHCNVN từ chối kế thừa di sản của Pháp (chuyển sang VNCH) :


A la suite de la disparition de la République du Sud VN, le nouveau gouvernement de VN n’a pas fait la déclaration indiquant qu’il entendait succéder aux traités des 16 Septembre 1954 et 16 Aout 1955, conclus entre la République française et l’ancien gouvernement Sud Vietnam. Il en résulte, conformément au principes du droit international actuel en matière de question du succestion d’Etat, que ces traités n’engagent plus le gouvernement actuel de VN et qu’il sont devenus caduc.


Tạm dịch : Tiếp theo sự biến mất của Cộng hòa miền Nam, chính phủ VN mới đã không ra tuyên bố cho biết họ kế thừa các hiệp ước 16-9-1954 và 16-8-1955, ký kết giữa Cộng hòa Pháp và chính phủ miền Nam VN cũ. Vì vậy, chiếu theo các nguyên tắc của luật quốc tế hiện thời về vấn đề kế thừa quốc gia, các hiệp ước này không còn ràng buộc chính phủ VN hiện thời và chúng trở thành vô giá trị.


Tức là, chiếu theo Công ước Vienne 1969 (và 1978) Luật về các điều ước quốc tế, quốc gia CNXHCNVN đã áp dụng « table rase », phủi sạch mọi kết ước của VNCH đã ký kết với các nước khác trong quá khứ. Những điều mà CHXHCNVN gọi là « kế thừa VNCH » sau này, như nợ các nước (được các học giả VN dẫn ra như là bằng chứng kế thừa VNCH), chỉ được thể hiện do sức ép của các nước liên hệ. Tức là, nếu các nước này không ép, việc gọi là kế thừa VNCH về các khoản nợ cũng sẽ không diễn ra.


Trong khi việc kế thừa là cần thiết, nhất là đối với danh nghĩa chủ quyền một vùng lãnh thổ đã mất, để sự hiện hữu thẩm quyền quốc gia trên vùng lãnh thổ đó được liên tục.
Điều 3 của Nghị quyết của LHQ cho biết về các vấn đề « liên tục quốc gia » :


« Sự liên tục của quốc gia có nghĩa là tính cách pháp nhân của quốc gia trong luật pháp quốc tế vẫn tồn tại bất chấp những thay đổi về lãnh thổ, dân số, hệ thống chính trị - pháp lý và quốc hiệu. »


Tức là muốn chứng minh VN hôm nay có « chủ quyền bất khả tranh biện » tại HS và TS, thì việc tiên quyết phải chứng minh là các chính quyền VN đã liên tục hành sử chủ quyền trên các vùng lãnh thổ này, bất kể các biến cố về chính trị, hay việc khai sanh ra một quốc gia VN mới.


Sau 1975, CP LTCHMNVN đã thể hiện các động thái nào để làm sáng tỏ lập trường của mình tại các vùng lãnh thổ có tranh chấp (với Trung Quốc) là Hoàng Sa và Trường Sa ?
Cũng như VNDCCH, là không có gì cả, tức im lặng.


Hai thực thể chính trị này có chung một lãnh đạo, vì thế không thể có hai lập trường. Theo tập quán quốc tế, sự « im lặng » (trong những trường hợp cần phải lên tiếng) là nhìn nhận thực tế (về pháp lý) đem lại do tình huống đó. Tình huống đó là TQ đã chiếm HS của VN bằng vũ lực, dưới lý do « giải phóng một vùng lãnh thổ do ngoại nhân chiếm đóng ».


Điều nên biết, lập trường của Hoa Kỳ ([iii]), VNCH là một quốc gia bị giải thể :


The Republic of Viet Nam, both of a state and government, had ceased to exist in law or fact and the United States had not recognized any government as the sovereigh authority in the territory formerly known as South Viet Nam


Tạm dịch: Việt Nam cộng hòa, quốc gia và chính quyền, đã ngừng hiện hữu trên phương diện pháp lý và thực tế. Hoa Kỳ không công nhận bất kỳ nhà nước nào trên vùng lãnh thổ trước kia mang tên Nam Việt Nam.


Như vậy, trên nguyên tắc (nếu VNCH và VNDCCH là hai quốc gia), sau khi VNCH giải thể, không có kế thừa, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở thành vô chủ.


Vì vậy phía TQ có lý khi đưa lập luận : « chưa bao giờ VN phản đối chủ quyền của TQ tại HS và TS ». Thật vậy, từ lúc « khai sinh » 2-9-1945 cho đến khi thống nhất đất nước, VNDCCH có bao giờ lên tiếng khẳng định HS và TS là của VN ? TQ chỉ nhìn nhận có một quốc gia VN duy nhất, nhưng do phía VNDCCH là đại diện. Tất cả các tài liệu (pháp lý) chứng minh tính « effectivité – thể hiện thẩm quyền quốc gia » của quốc gia VN trên các vùng lãnh thổ HS và TS do CHXHCNVN đưa ra hôm nay, đều đến từ VNCH. Mà thực thể chính trị này TQ, cũng như VNDCCH, đã không nhìn nhận sự hiện hữu.


Vì vậy tôi cho rằng, khi nhìn nhận VNCH và VNDCCH là hai « quốc gia », thì VN đã mất (trên thực tế HS năm 1974), mất về danh nghĩa chủ quyền sau khi CHXHCNVN được khai sinh. VN hôm nay không có tư cách nào để chứng minh HS là một lãnh thổ có tranh chấp (chứ đừng mơ tưởng việc lấy lại HS).


Một góp ý nhỏ khác về công pháp quốc tế, khi Luật sư cho rằng : « các quốc gia liên bang (Etats fédérés) của Hoa Kỳ (État fédéral) cũng được coi như những quốc gia theo Công Pháp Quốc Tế mặc dù không có quyền đối ngoại và an ninh ».


Xin thưa rằng điều này không đúng.


Đối tượng của quốc tế công pháp là những quốc gia (có chủ quyền – souveraineté). Thế nào là « chủ quyền – souveraineté » ?


« Chủ quyền – souveraineté » được định nghĩa như là một « thẩm quyền tối thuợng, tuyệt đối và vô điều kiện », theo tư tưởng của cuộc Cách mạng Pháp 1789 :


« Le principe de toute Souveraineté réside essentiellement dans la nation. Nul corps, nul individu ne peut exercer d’autorité qui n’en émane expressément »


Tạm dịch : Nguyên tắc của « chủ quyền » về bản thể là ở (trong lòng) dân tộc. Không có một chủ thể bất kỳ, một cá nhân nào có thể hành sử quyền hành mà không bắt nguồn một cách minh bạch từ đây.


« Chủ quyền – souveraineté », dưới chế độc độc tài thì do một « cá nhân » nắm giữ  còn trong một chế độc dân chủ thì « chủ quyền » thuộc về người dân.


Trên phương diện công pháp quốc tế, « chủ quyền – souveraineté » được hiểu như là sự độc lập của quốc gia trong việc bang giao với các quốc gia khác (phán quyết của trọng tài Max Huber, CIJ về tranh chấp đảo Palmas 4-4-1928).


Tôi thấy người Việt mình hay lẫn lộn « chủ quyền » với « quyền sở hữu - droit de propriété ».


Chữ « quyền » trong « chủ quyền » không phải là « droit, right » của nhân quyền mà là « quyền » của quyền lực « pouvoir, power » : quyền lực tối thuợng. Quyền lực tối thuợng này có thể khai sinh ra « quyền sở hữu » cũng như « truất quyền sở hữu ». Việc cấp đất, chứng nhận việc chuyển nhượng chủ quyền đất đai tại các nước, là thể hiện « chủ quyền lãnh thổ », tức quyền lực tối thuợng, của nước này trên vùng lãnh thổ của họ. Thí dụ khác, trường hợp nhà nước Nhật quyết định quốc hữu hóa (mua lại) các đảo Senkaku, vốn của tư nhân. Hành vi « truất quyền tư hữu » (của người chủ) ở đây là nhằm để « khẳng định chủ quyền » của Nhật tại Senkaku. (Vì vậy TQ mới lên tiếng dữ dội sau việc này).


Do lẫn lộn « chủ quyền » với « quyền sở hữu » nên mới nảy sinh ra các quan niệm sai lầm « chủ quyền lãnh thổ thuộc về quốc gia » (như trường hợp các học giả nhóm Quĩ Nghiên cứu Biển Đông).


Cũng cần nói rõ thêm về ý nghĩa của « quốc gia » để biết rằng sự sai lầm của câu trên thật là lớn lao.


Từ « quốc gia » ở đây là dịch từ chữ « Etat ». Theo tôi dịch như vậy là không chính xác so với nghĩa nguyên của từ « Etat ».


« Etat », theo định nghĩa của quốc tế công pháp, là một hiện tượng xã hội chính trị, được cấu thành từ các yếu tố : lãnh thổ, dân chúng, một chính phủ và « có chủ quyền - souveraineté », tức là độc lập trong việc bang giao với các nước khác. « Etat », lý ra phải dịch là « nhà nước ».


« Etat » không phải là một « thể nhân – personne physique » mà chỉ là một « pháp nhân – personne morale », do đó cần một thực thể (physique) để đại diện, đó là « gouvernement – chính phủ ».


Người ta nói « chủ quyền lãnh thổ » là nói đến thẩm quyền của quốc gia trên vùng lãnh thổ đó chứ không phải nói đến « quốc gia – Etat » là sở hữu chủ của vùng lãnh thổ đó.


Khi cho rằng « chủ quyền lãnh thổ thuộc về quốc gia », trường hợp các vùng lãnh thổ tự trị, không phải là quốc gia (như Palestine) thì « chủ quyền » lãnh thổ » thuộc về ai ? Hay trường hợp các « quốc gia » trong « quốc gia liên bang », « chủ quyền lãnh thổ » thuộc về ai ?


Dĩ nhiên « chủ quyền » ở đây, là quyền lực tối thuợng của dân Palestine hay toàn thể các tiểu bang (cấu thành liên bang), phải thuộc về toàn dân.  


Trở lại ý kiến của Luật sư :
« các quốc gia liên bang (Ếtats fédérés) của Hoa Kỳ (État fédéral) cũng được coi như những quốc gia theo Công Pháp Quốc Tế mặc dù không có quyền đối ngoại và an ninh ».


Theo tôi là không đúng. Các « tiểu bang - Etat » của HK không phải là « đối tượng » của quốc tế công pháp. Đơn giản vì các tiểu bang này đã giao « chủ quyền », tức quyền lực tối thuợng trên lãnh thổ, cho nhà nước liên bang. Các tiểu bang này không có độc lập (souveraineté) khi quan hệ với các quốc gia khác.


Có lẽ Luật sư lẫn lộn giữa việc cá nhân, tập đoàn quốc tế (hay chính quyền tiểu bang của một nhà nước liên bang) sử dụng tư pháp quốc tế để kiện một quốc gia nào đó, với quốc gia là « đối tượng » của quốc tế công pháp. Hai việc này thuộc về hai lãnh vực luật học hoàn toàn khác nhau.


2/ Về hiệu lực pháp lý của công hàm 1958. Theo tôi, mọi hình thức công nhận hiệu lực pháp lý của công hàm này, cho dù chỉ ở điểm hải phận 12 hải lý, cũng sẽ đưa VN vài tình thế nan giải. Vì vậy, ý kiến của tôi là phải phủ nhận một cách đơn giản (pure et simple), công hàm này.


Để hiểu rõ hơn ý nghĩa pháp lý của công hàm 1958, mình thử đặt giả thuyết rằng công hàm này không hiện hữu, thì Tuyên bố của TQ về lãnh thổ và hải phận 1958 có hiệu lực gì đối với VN hay không ?


Tôi có bài viết ở đây, mọi người có thể đọc tham khảo.


Theo tôi, có hay không có công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, thì VN cũng sẽ bị vướng « estoppel par acquiescement - estoppel by acquiscence ».


Còn việc nếu nhìn nhận thêm hiệu lực 12 hải lý, thì VN sẽ bị hiệu quả của luật về thời hiệu, phải nhìn nhận hiệu lực vùng kinh tế độc quyền (ZEE) ở các đảo HS và TS.
3/ Đề nghị giải quyết vấn đề tranh chấp của tôi (trong bài trước) là :


(VN) Đệ đơn đề nghị Tòa Công lý Quốc tế (CIJ) tuyên bố một số điều :


-   Việc chiếm hữu một lãnh thổ bằng phương pháp vũ lực là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của LHQ.
-   Việc chiếm hữu các đảo ở Trường Sa (lập danh sách chi tiết các đảo) năm 1988 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
-   Việc chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa tháng giêng năm 1974 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.


Tôi vẫn cho rằng ý kiến của tôi :


« Đây là một việc làm ít tốn kém, đáng lẽ không cần phải đưa ra một tổ hợp luật sư nào. Tuy nhiên, để nắm chắc phần thắng, đơn không bị bác do lỗi thủ tục, VN nên thông qua một tổ hợp luật sư chuyên môn ở HK. »


Là đúng.


Có lẽ Luật Sư đã lầm lẫn một vụ « kiện » ai đó (hay nước nào đó), như ý kiến của Luật Sư trong bài viết, với một vụ (không kiện ai hết) mà chỉ yêu cầu tòa « tuyên bố », (thực ra là « giải thích » và « tuyên bố ») về các điều khoản trong các kết ước nền tảng của quốc tế.


Điều 36 của Tòa công lý Quốc tế ghi :


Article 36
1. La compétence de la Cour s'étend à toutes les affaires que les parties lui soumettront, ainsi qu'à tous les cas spécialement prévus dans la Charte des Nations Unies ou dans les traités et conventions en vigueur.
2. Les Etats parties au présent Statut pourront, à n'importe quel moment, déclarer reconnaître comme obligatoire de plein droit et sans convention spéciale, à l'égard de tout autre Etat acceptant la même obligation, la juridiction de la Cour sur tous les différends d'ordre juridique ayant pour objet :
a. l'interprétation d'un traité;
b. tout point de droit international;


Khoản 1 cho thấy Tòa chỉ xử nếu hai bên cùng đồng thuận nhìn nhận thẩm quyền của Tòa. Khoản 2, đoạn (a) và (b) : a) giải thích một kết ước ; b) tất cả các điểm của luật quốc tế.


Tức là việc yêu cầu Tòa CIJ giải thích một điều ước, hay một điều luật thuộc quốc tế công pháp, hoàn toàn thuộc về « quyền » của quốc gia VN và thẩm quyền của Tòa (nếu VN ra tuyên bố nhìn nhận thẩm quyền của Tòa. Hiệu lực của tuyên bố là tức thời).
Ở đây ta yêu cầu Tòa giải thích về điều gì ?


Tôi đã viết trong bài trước là :


« Các điều ước quốc tế liên quan gồm : Công ước Drago-Porter 1907, Hiến chương LHQ điều 2 khoản 4 ngày 26-6-1945, hay Tuyên bố của Đại hội đồng LHQ 18-11-1987. »


Theo các điều ước dẫn trên, việc chiếm hữu lãnh thổ bằng vũ lực là không được nhìn nhận chủ quyền.


Như vậy, các kết luận của LS :


« - a) Đơn kiện (Requête + mémoire): phải ghi đầy đủ nguyên đơn (Demandeur) hay bị đơn (Défendeur) cách trình bày phải theo đúng nội qui (règlemet) của Toà: mỗi sự kiện, mỗi luân cứ, mỗi ý tưởng phải được trình bày xúc tích rõ ràng chính xác, ăn khớp thứ tự lớp lang (ordonnés) trong một đoạn ngắn (paragraphe) và đánh số thứ tự 1, 2, 3…, (Répblique + contre-mémoire ) trong một khổ giấy và dòng chữ double…; trong phần mémoire hay contre-mémoire, ngoài các chứng cứ có phần gọi là cahier d’autorité (copies nguyên bản các án lệ viện dẫn, doctrine…).
Ơ đây tôi không nói tới các bên mise en cause, intervenats v.v… sẽ còn phức tạp hơn.
Tóm lại các đơn kiện và phản biện này chỉ là bước khởi đầu để Toà Án cũng như các bên biết mình muốn gì, muốn Toà án phân xử gì (vụ khiếu kiện Trung Quốccủa Philippines ra Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế về đường lưỡi bò đơn giản hơn nhiều so với vụ việc của Việt Nam mà đã hơn 3000 trang giấy).
Phần thứ hai dưới đây mới là phần quan trọng nhất có tính cách quyết định thắng hay thua vụ kiện.
- b) Tranh biện trong các phiên Tòa (Auditions)
- Căn cứ vào Đơn kiện (Requête + mémoire) của bên Nguyên đơn và bị đơn trả lời (réponse + contre-mémoire) và phản biện trả lời (réplique), các luật sư bắt đầu đưa ra từng sự kiện, từng chứng cứ, từng nhân chứng (témoins, agents, experts về géoghaphique, geophysique, cartographique…) ra thử thách (teste) để biết tính cách hư thực của mỗi sự kiện, luận cứ ghi trong mỗi đoạn (paragraphe) đã được đánh số thứ tự… »


Sẽ không ăn nhập gì với đề nghị của tôi hết. Đề nghị của tôi đâu có « kiện » ai ?.


Vì làm sao có thể kiện TQ, nếu phía này không ký nhận thẩm quyền của Tòa ? (Chưa nói đến các bảo lưu của họ lại LHQ về tranh chấp lãnh thổ).


Và cũng theo điều lệ của CIJ, bất kỳ một đại diện nào của quốc gia cũng có quyền ra biện luận trước Tòa, không cần phải là luật sư. (Những người nghiên cứu về luật, như giáo sư luật, thường được các quốc gia mời làm đại diện để trình bày các quan điểm của quốc gia. Những người này hiểu biết luật – và lịch sử, hơn các luật sư nhưng họ không biết về thủ tục tố tụng như luật sư). Do đó, ý kiến của tôi, đáng lẽ là không cần phải nhờ tới luật sư, như e rằng bị lỗi do thủ tục, nên nhờ một tổ hợp luật sư kinh nghiệm.


Về vấn đề « thủ tục – procédure », Luật sư viết :


« Là một luật sư chuyên nghiệp hơn 20 năm, tôi chưa hề thấy một vụ kiện quốc tế nào bị bác đơn kiện vì lỗi thủ tục. Một đứa con tôi luật sư khá nổi tiếng về các hồ sơ quốc tế của các toà án quốc tế cũng thấy vậy. Việc này chỉ xẩy ra các vụ kiện trong một quốc gia. »


Xin thưa với Luật sư, chỉ cần lên Google bấm các chữ « vices procédures – CIJ) thì sẽ thấy hiện lên bao nhiêu trường hợp.


Một giả thuyết để làm thí dụ, nếu bây giờ Luật sư đệ đơn lên CIJ kiện TQ về HS và TS, chắc chắn hồ sơ của LS sẽ bị bác, đơn giản vì lỗi thủ tục.


Đâu phải muốn kiện TQ là kiện đâu, thưa Luật sư ? TQ cũng có bảo lưu những vấn đề mà họ không muốn bị đưa ra Tòa phân xử. Đó là do từ quyền lực tối thuợng « souveraineté », cũng như sự độc lập của họ. TQ có thể tuyên bố rút ra khỏi Công ước 1982 về Biển mà không ai làm gì được họ. Trong khi, như đã viết, tìa CIJ chỉ có hiệu lực nếu hai bên ký nhận thẩm quyền của Tòa. Nếu TQ không ký thì Luật sư làm gì được họ ? Kiện như vậy không phải « vice procédure – lỗi thủ tục » thì là gì ?


Nếu không nhớ lầm, nhà nước VN đã từng nếm cay đắng, thua kiện, phải bồi thường cho các đối tượng vì « lỗi thủ tục », là không hiện diện trước Tòa khi bị triệu tập. (Vụ án về hãng hàng không VN thì phải).


Dẫn một thí dụ khác :


« LA HAYE, le 17 juin 2003. La Cour internationale de Justice (CIJ), organe judiciaire principal des Nations Unies, a rejeté aujourd’hui la demande en indication de mesure conservatoire présentée par la République du Congo en l’affaire relative à Certaines procédures pénales engagées en France (République du Congo c. France) »


Theo đó thì Tòa đã bác đơn của nước Cộng hòa Congo kiện nước Pháp (vì lỗi thủ tục).
Tức là, việc « lỗi do thủ tục » là một điều có thật chứ không phải là không có. Có thể Luật sư (và gia đình) chưa đọc, hay chưa gặp các trường hợp này mà thôi.




[i] Nguyen Duy Tan Joële. La représentation du Viet-Nam dans les institutions spécialisées. In: Annuaire français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419. doi : 10.3406/afdi.1976.1996 http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1976_num_22_1_1996
[ii] Conrad G. Buhler, sdd, tr 107.
[iii] Conrad G. Buhler, in State Succession and Membership in International Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism, tr94-103…sdd, tr 107.