jeudi 18 juin 2015

Về hiệu lực pháp lý và cách hóa giải Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng.

Lập luận thường thấy dẫn đi dẫn lại, không chỉ ở các bài viết của (hầu hết) các học giả VN, mà còn thấy thường xuyên ở các dư luận viên, với mục đích « hóa giải » công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Đó là « người ta không thể chuyển nhượng cho ai cái mà người ta không có chủ quyền ». Lập luận này cho rằng Việt Nam bị chia hai theo Hiệp định Genève 1954. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do VNCH quản lý, những tuyên bố của miền Bắc (VNDCCH), như công hàm 1958, sẽ không có hiệu lực lên chủ quyền của các quần đảo này. Có người còn đi xa hơn, cho rằng hai thực thể chính trị VNDCCH và VNCH là « hai quốc gia, độc lập có chủ quyền », sau đó kết luận rằng hệ quả về pháp lý của công hàm 1958 sẽ không ràng buộc đối với quốc gia CHXHCNVN hiện tại.

Lập luận này tôi đã từng viết cảnh báo nhiều lần rằng nó rất nguy hiểm. Nếu nhà nước chính thức sử dụng nó thì các thế hệ VN trong tương lai sẽ vô phương, không còn lý lẽ nào để đòi lại HS và TS.
Nhắc lại một vụ VN dính líu đến pháp lý gần đây, đó là vụ kiện « chất da cam », mục đích răn đe để mọi người cẩn thận. Không biết luật thì đừng đùa với luật.

Người Mỹ rải 80 triệu lít chất khai quang này lên một số vùng lãnh thổ ở miền Nam. Tác hại của nó, lên người cũng như lên đồng ruộng, rừng rú… VN chắc chắn phải là có. Những cựu quân nhân Mỹ và Đại Hàn, những người trước kia đã tiếp xúc với hóa chất này tại VN, đã kiện và đã thắng. Họ được chính phủ Mỹ bồi thường. Nhưng VN kiện nhà nước Mỹ, lại thua. Vì sao thua ? Dĩ nhiên là vì « ngu », vì không biết luật, chứ không phải vì thiếu bằng chứng. VN đã giao hồ sơ kiện cho một nhóm người, có thể tinh tường về xảo thuật tuyên truyền, nhưng là những « a ma tơ » về luật. Vụ này không phải duy nhứt. VN cũng có nhiều vụ kiện (quốc tế) thất bại, như vụ hàng không VN. Nguyên nhân thua đơn giản cũng chỉ vì không biết luật (nhưng thích giỡn mặt với luật).

Công hàm 1958 là một « tuyên bố đơn phương » của VNDCCH nhìn nhận một (tuyên bố đơn phương) của TQ về lãnh hải 12 hải lý và chủ quyền lãnh thổ của TQ ở một số đảo.

Về ý nghĩa và hiệu lực pháp lý của một tuyên bố đơn phương, tôi có viết bài ở đây : 


Tôi cũng đặt giả thuyết, nếu công hàm 1958 không hiện hữu, thì sự « im lặng » của VN trước tuyên bố về lãnh hải và chủ quyền lãnh thổ của TQ, thì tuyên bố của TQ sẽ có hiệu lực ràng buộc VN. Bài viết ở đây :


Trong tiểu đoạn này tôi không nhắc lại những điều đã ghi trong các bài đó mà chỉ nói những điều chưa đề cập (hay ít đề cập).

1/ Công hàm 1958 vô hiệu do hệ quả « table rase – phủi sạch » sau khi VN thống nhứt.

Lập luận này thấy trong bài viết của tác giả « Quốc Pháp », được đăng tải trên các trang báo trong, ngoài nước.

Tác giả giải thích rằng, tập quán quốc tế dành cho những quốc gia mới độc lập quyền « table rase », tức là phủi sạch, tất cả những hiệp ước bất bình đẳng đã ký kết trước đây. Theo tác giả, nước CHXHCNVN kế thừa HS và TS từ VNCH, thông qua CHLPCHMNVN.

Vấn đề là, theo điều 11 của Công ước Vienne 1978 (Vienna Convention on Succession of States in respect of Treaties 1978), « table rase » không áp dụng trong trường hợp các kết ước, hay những điều ước có liên quan đến lãnh thổ, hoặc các điều ước có hiệu quả làm thay đổi đường biên giới.  

Xem bài tôi giải thích về điều 11 Công ước Vienne 1978 ở đây : 


2/ Về lập luận « VNCH và VNDCCH là hai quốc gia độc lập có chủ quyền » của nhóm « Quĩ Nghiên cứu Biển Đông ».

Đây là lập luận nguy hiểm nhứt, có thể làm cho VN mất vĩnh viễn danh nghĩa chủ quyền HS và TS. Lập luận này có những điều sơ hở chết người như sau :

Thứ nhứt, đi ngược nội dung hai hiệp ước nền tảng khai sinh nước VN sau này, đó là Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973. Cả hai hiệp định này khẳng định « Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhứt ba miền Bắc, Trung, Nam. Vĩ tuyến 17 là đường phân chia tạm thời, không phải là đường ranh giới ».

Mọi người cần phải biết, một hồ sơ « pháp lý » muốn có giá trị, điều tiên khởi là mọi lập luận nền tảng của hồ sơ phải phù hợp với pháp lý.

Công pháp quốc tế đặt nền tảng trên những qui ước, những đồng thuận của các quốc gia cũng như tập quán về quan hệ giữa các quốc gia.

Lập luận « VNCH và VNDCCH là hai quốc gia độc lập có chủ quyền » đã đi ngược các nguyên tắc về luật quốc tế. Nó đã đi ngược lại nội dung hai kết ước quốc tế  1954 và 1973.

Một hồ sơ kết tinh trên một lập luận như vậy, theo tôi, có thể bị Tòa loại ngay từ vòng đầu.

Thứ hai, khi nhìn nhận VNCH và VNDCCH là hai quốc gia độc lập có chủ quyền, thì (người chủ trương lập luận này) đã mặc nhiên nhìn nhận VNDCCH không có danh nghĩa chủ quyền tại HS và TS.

Vậy thì việc TQ chiếm HS năm 1974 (và có thể toàn bộ TS sau này) là chiếm lãnh thổ của quốc gia tên gọi VNCH. Quốc gia VNDCCH, bây giờ là CHXHCNVN, là bên thứ ba, đâu có quan hệ gì đến HS và TS ?

Thứ ba, những người chủ trương lập luận này cho rằng quốc gia VN hôm nay, tức CHXHCNVN, « kế thừa » danh nghĩa chủ quyền HS và TS từ CPLT CHMNVN.

Giả sử rằng CHXHCNVN kế thừa HS và TS từ CPLT CHMNVN. Vấn đề là quốc gia CHXHCNVN « kế tục » quốc gia VNDCCH. Làm thế nào một quốc gia có thể kế thừa cùng lúc hai lập trường đối kháng ?

Còn nhiều lập luận « nguy hiểm » khác nhưng không nhắc ở đây. (Như lập luận của Từ Đặng Minh Thu. Tác giả cho rằng công hàm 1958 là một « tuyên bố về ý định », mà một tuyên bố về ý định có thể không tuân thủ…)

Tất cả các tác giả của những lập luận trên đây đều có điểm chung là nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958. Lập luận của các tác giả là « né tránh » hiệu lực ràng buộc về pháp lý công hàm này chứ không nhằm « hóa giải » nó.

Đây là một điều tệ hại nhứt của luật học. Một lý thuyết gia về luật, hay một luật sư, cho dầu tệ hại đến đâu, mục tiêu của họ là phủ nhận hiệu lực pháp lý bất kỳ hồ sơ nào do địch thủ đưa ra chứ không phải là nhìn nhận nó.

Câu hỏi đặt ra, hóa giải hiệu lực công hàm 1958 như thế nào ?

Quân bất hí ngôn, bút sa gà chết ! đã ký rồi thì chối cãi làm sao ?

Tôi đã đề nghị phương pháp hóa giải, nói đi nói lại nhiều lần, điển hình ở đây : 


Lập luận của tôi, công hàm 1958 không có giá trị pháp lý, vì nó đã đi ngược lại các nguyên tắc nền tảng về pháp lý qui định từ hai hiệp định nền tảng khai sinh ra nước VN : hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973.

Tôi có giải thích như sau :

Do hoàn cảnh lịch sử, nước Việt Nam bị phân chia thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang tên : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa.

Chiếu theo tinh thần Hiệp định Genève 1954 (được các nước Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô, TQ bảo trợ), các nước công nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ VN. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ.

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do ở phía nam vĩ tuyến 17, do đó thuộc quyền quản lý của VNCH.
Vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam được tái xác định theo Hiệp định Paris năm 1973 : « Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Genève 1954 về Việt Nam đã công nhận. »
Tinh thần hai hiệp định, cũng là một chân lý làm nên chất keo gắn bó nhân dân và đất nước VN : đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…
Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Trên tinh thần tôn trọng « độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam » của các hiệp ước quốc tế này (mà các nước Mỹ, Trung Quốc, Anh, Pháp… đồng bảo trợ chúng), bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (VNCH hay VNDCCH), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.

Nhà cầm quyền Trung Quốc viện dẫn công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết nhằm ủng hộ tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc tháng 9 năm 1958, cho rằng nhà nước VNDCCH đã nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa (và Trường Sa). Điều này hiển nhiên không đúng
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.

Hóa giải công hàm 1958 chỉ đơn giản như vậy.



lundi 15 juin 2015

Nhân 800 năm Magna Carta thử bàn về nguồn gốc và cách dịch thuật từ « pháp quyền » trong « Pháp quyền Xã Hội Chủ nghĩa ».

Tuyên ngôn « Magna Carta Libertatum » của Anh quốc ra đời ngày 15 tháng 6 năm 1215, đến nay là đúng 800 năm, được xem là văn bản đầu tiên, làm nền tảng cho các hệ thống luật lệ và hình thức tổ chức nhà nước « Rule of Law » và « Etat de Droit » ở các nước tự do dân chủ hiện thời. Nội dung cốt lõi của Magna Carta (được thể hiện ở các quốc gia tự do dân chủ) là quyền tự do của cá nhân được bảo đảm bằng luật và sự thể hiện quyền lực của hoàng đế (nay là nhà nước) phải tuân thủ theo luật lệ. 

Nếu so sánh với tinh thần « Magna Carta », 800 năm sau, thì cái gọi là « Pháp quyền Xã Hội Chủ nghĩa » của nhà nước Việt Nam vẫn là một thứ lẩu thập cẩm về luật lệ. Hiến pháp thực tế là « cương lĩnh » của đảng cộng sản cầm quyền trong một giai đoạn nhứt định. Đảng là một tập đoàn « siêu quyền lực », được hiến pháp cho phép lãnh đạo tuyệt đối mọi lãnh vực trong xã hội, nhưng không bị chế tài bởi pháp luật. Tức là đảng đứng trên và đứng ngoài hệ thống pháp luật. Toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào nhân sự đảng viên. Hiến pháp qui định lực lượng công an, quân đội phải có nhiệm vụ bảo vệ đảng. Nếu xét cho kỹ, hệ thống luật pháp của VN hiện nay còn kém hơn luật lệ của Anh từ 800 năm trước. Bởi vì quyền lực của hoàng gia Anh phải tuân thủ pháp luật trong khi đảng CSVN không hề bị chế tài bởi bất kỳ một điều luật nào.

Dầu vậy hệ thống luật lệ và cách thức tổ chức nhà nước này được mệnh danh là « nhà nước pháp quyền ».

Vậy thì nguồn gốc của « pháp quyền » trong cụm từ « nhà nước pháp quyền » đã đến từ đâu ?
Theo TS Nguyễn Sĩ Dũng trong bài « Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền » :

“Năm 1919, trong Bản yêu sách được Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Vecxây, yêu sách thứ 7 là pháp quyền. Sau này, yêu sách đó được Bác thể hiện thành lời ca: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (Yêu cầu ca, Báo Nhân dân, ngày 30/1/77).”


“Cho đến nay, qua các tư­ liệu lịch sử có đ­ược, có thể nói, đây là lần đầu tiên trong văn học sử Việt Nam xuất hiện khái niệm “pháp quyền” và “pháp quyền” ở đây lại được nâng lên thành “thần linh” - một khái niệm linh thiêng, làm nổi bật ý nghĩa tính chất “pháp quyền”, nổi bật ý nghĩa, vai trò của pháp luật, của Hiến pháp trong đời sống xã hội.”

Như vậy từ ngữ « pháp quyền », theo các học giả trên, là của ông Hồ.

Vấn đề là ý nghĩa của “pháp quyền” mà ông Hồ sử dụng là gì ? Ông sử dụng từ ngữ này trong dịp nào ? Muốn vậy ta phải tìm hiểu bản Yêu sách năm 1919 (Revendications du peuple Annamite – Yêu sách của nhân dân An Nam) đã nói lên những điều gì.

Bài vè lục bát tựa đề « Việt Nam yêu cầu ca », thực ra là bản “phóng tác” của bản yêu sách 7 điểm viết bằng tiếng Pháp « Revendications du peuple Annamite – Yêu sách của nhân dân An Nam » (mà các sử gia VN cho là của ông Hồ), viết năm 1919 nhân dịp Hội nghị các đại cường thắng trận Đệ Nhất thế chiến tổ chức tại Versaille. Gọi là “phóng tác” vì bài dịch này không phù hợp với ý nghĩa tiếng Pháp của văn bản. Bài vè có câu :

« Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền »

Nguyên văn yêu sách số 7, bản tiếng Pháp :

« 7/ Remplacement du régime des décrets par les régimes des lois. » (Nguồn : Les décolonisations au XXe siècle: La fin des empires européens et japonais, Par Pierre Brocheux, Annexe 1.)

Tạm dịch ra tiếng Việt là : thay thế chế độ pháp lệnh bằng chế độ luật lệ.

So sánh lại ta thấy ý nghĩa tiếng Việt và tiếng Pháp của văn bản là không hoàn toàn chính xác. Trong bản tiếng Việt nói đến « hiến pháp » mà điều này không thấy trong bản chính tiếng Pháp. Nhưng đại cương về ý tứ thì có thể chấp nhận.

Ý nghĩa của điều 7 (tiếng Việt) là gì ? « Xin » ở đây là « xin ai », ai xin ? Hiến pháp này là hiến pháp nào ? Ai ban bố ?

Bản “yêu sách” gởi Hội nghị Versaille, nơi các cường quốc thắng trận đang hội họp. Dĩ nhiên là “xin” lãnh đạo các đại cường thắng trận, trong đó có Pháp quốc. Người xin dĩ nhiên là tác giả của Văn bản (các sử gia VN thì cho là của ông Hồ).

Hiến pháp này là hiến pháp nào ? VN lúc đó vẫn còn là “thuộc địa” của Pháp, được Pháp cai trị dưới “chế độ pháp lệnh” (của Bộ Thuộc địa và quan Toàn quyền), chứ không theo luật lệ (Hiến pháp) của mẫu quốc. Hiến pháp ở đây phải là hiến pháp của mẫu quốc.

Điều này sẽ rõ rệt nếu ta xét lại điều 2 của bản Yêu sách :

« 2/ Réforme de la justice indochinoise par l’octroi aux Indigènes des mêmes garanties judiciaires qu’aux Européens, et la suppression complète et définitive des Tribunaux d’exception qui sont des instruments de terrorisation et d’oppression contre la partie la plus honnête du peuple Annamite. »

(Nguồn : Les décolonisations au XXe siècle: La fin des empires européens et japonais, Par Pierre Brocheux, Annexe 1.)

Tạm dịch : cải cách lại pháp lý Đông dương bằng cách ban bố cho người bản địa được bảo đảm về tư pháp (tài phán) như là người Châu Âu đồng thời bãi bỏ vĩnh viễn tất cả những loại Tòa án đặc biệt mà thực chất chỉ là những công cụ khủng bố và đàn áp thành phần những người An Nam lương thiện nhất.

Chữ « l’octroi » trong tiếng Pháp có nghĩa là « ban bố, ban phát ».

« Xin » để được « ban phát » : quyền được bình đẳng về tài phán như người Châu Âu.

« Bảy xin hiến pháp ban hành - trăm điều phải có thần linh pháp quyền » ở đây có nghĩa là xin hiến pháp của mẫu quốc ban hành những điều « luật » để bảo đảm « quyền » của người « bản địa ».

VN lúc đó chưa lấy lại « độc lập – souveraineté » thì không thể nói « hiến pháp » trong câu này là « hiến pháp » của nước VN được.

 (Giả sử rằng Tây thực dân lúc đó chấp nhận bản Yêu sách, thay đổi hiến pháp, cho phép toàn dân Đông dương được quyền “ngang hàng” với dân Tây mẫu quốc. VN (và Khmer, Lào) đã trở thành một “lãnh thổ hải ngoại” của Pháp, như Nouvelle-Calédonie, Réunion... hiện nay. Các dân tộc Đông dương (kể cả VN) đã có quốc tịch Pháp hết rồi ! Uổng quá phải không ?)

Như vậy « pháp quyền » của ông Hồ có ý nghĩa là “juridiction” (như các định nghĩa của tự điển tiếng Việt xuất bản ở miền Nam trước 1975).

Vấn đề đặt ra, ta có thể dùng tinh thần pháp quyền của ông Hồ để chuyển dịch ý nghĩa của khái niệm « rule of law » của Anh (như đã thấy ở một số học giả, nhà báo Việt Nam trong, ngoài nước hiện nay) được hay không ?

Theo tôi là không được !

Thứ nhứt, về cách dịch theo “word by word”. Thuật từ « rule of law » là một nhóm từ chuyên môn thuộc về “khái niệm”, không thể tách rời ra từng chữ. Ý nghĩa của nó là « sự ưu việt hay sự thống trị của pháp luật » (prééminent de droit – primauté de droit). Tách rời từng chữ ra để dịch có thể đúng trên con chữ, nhưng sẽ mất đi ý nghĩa “khái niệm” của thuật từ.

Tự điển tiếng Hoa có lúc dịch là “pháp qui”, tức qui tắc luật pháp (luật chơi trong cờ bạc). Có lúc dịch là “pháp trị”.

Cách dịch thứ nhứt không đúng vì chữ “rule” ở đây không thể dịch là “qui tắc” mà phải dịch là sự “thống trị” hay “ưu việt” (“règne” trong tiếng Pháp). Cách dịch thứ hai tạm ổn vì “pháp trị” là một khái niệm “dựa theo luật để cai trị” hiện hữu trong văn minh Trung Hoa từ lâu đời. Khái niệm “pháp trị” tương tự tinh thần của “Magna carta” 800 năm trước của Anh nhưng kém một điều là không qui định rõ quyền lực của hoàng đế có phục tùng luật pháp hay không. Dầu vậy, dùng một từ “khái niệm tương ứng” để dịch một từ tương ứng là đúng cách.

Thứ hai, như mọi người điều biết, ở Anh có đến hai khái niệm về luật : “common law” (luật do các phán lệ của các quan tòa) hay “statute law” (luật do quốc hội ban hành). Luật pháp nước Anh không đặt nền tảng trên hiến pháp (do quốc hội ban hành) mà trên các “phán lệ”. Chữ “law” trong « rule of law » là đến từ “common law”. Trong khi các xứ Châu Âu như Pháp, “état de droit”, nền tảng luật pháp đặt trên hiến pháp. Ở đây luật là do quốc hội ban hành.

Ý nghĩa chữ “pháp quyền” của ông Hồ mang nội hàm luật “hiến định” (bảy xin hiến pháp ban hành – trăm điều phải có thần linh pháp quyền), theo khái niệm “etat de droit” của Pháp.

 “Etat de Droit” được hiểu là “nhà nước xây dựng trên sự tôn trọng pháp luật” (État fondé sur le respect de la loi), tương đương với khái niệm “rule of law”.

Như vậy, lấy một khái niệm mang nội hàm “luật hiến định” để dịch một từ mang nội hàm “common law – droit commun – thông luật” là không hợp cách.

Thứ ba, về từ ngữ, không ai giải thích được (đến hôm nay), chữ “quyền” trong “pháp quyền” đến từ “quyền lực – power – pouvoir” hay từ “quyền lợi – right – droit” ? Nếu chưa xác định được nguồn gốc chữ “quyền” đến từ đâu thì mọi cách dịch đều chỉ là miễn cưỡng.

Vì vậy tôi cho là cách dùng từ “pháp quyền” để dịch “rule of law”, hay “nhà nước pháp quyền” để dịch “état de droit” đều sai.

Tạm chấp nhận, theo cách dịch của người Hoa, Nhật... là “pháp trị” (rule of law) và “nhà nước pháp trị” (etat de droit). Nhưng chính xác phải là “tinh thần trọng luật” hay “nhà nước (được xây dựng trên tinh thần) thượng tôn pháp luật”. 




dimanche 14 juin 2015

Quyền lịch sử nào của Trung Quốc tại biển Đông ?

Những tuyên bố chính thức của TQ về chủ quyền Biển Đông, lập luận thường xuyên được nhắc đi nhắc lại là : « TQ có chủ quyền bất khả tư nghị ở hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa và vùng biển chung quanh ». Tây Sa và Nam Sa là Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Vùng biển chung quanh tức vùng biển được giới hạn bởi 9 đoạn có hình chữ U, gọi là « đường chữ U », chiếm đến 90% diện tích Biển Đông.

Trên mặt báo chí, truyền thông, văn từ chính thức… của TQ mới đây cũng đã tuyên bố như thế.
Về chủ quyền hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của VN), những lập luận của TQ dầu ngang ngược nhưng người ta có thể hiểu. Nhưng « vùng biển chung quanh », TQ đã sử dụng những lý lẽ nào để chứng minh, hay thuyết phục dư luận thế giới rằng nó thuộc « chủ quyền » của TQ ?.

Theo tinh thần Luật Quốc tế về Biển 1982 (UNCLOS), một quốc gia có danh nghĩa « chủ quyền » ở một vùng biển, nếu và chỉ nếu biển này thuộc nội hải của quốc gia đó. Trong vùng nội hải quốc gia có đầy đủ thẩm quyền như trên đất liền. Lấy thí dụ đảo Hải Nam, vùng biển chung quanh đảo này không hề thuộc « chủ quyền » của TQ, ngoại trừ vùng biển phía trong đường cơ bản. Từ đường cơ bản tính ra 12 hải lý là « lãnh hải », quốc gia có « chủ quyền » (tương đối) ở vùng trời, nước và đất trong vùng lãnh hải. Tương đối vì bị hạn chế do việc phải nhượng quyền « qua lại không gây hại » cho tàu bè các nước. Vùng biển có bề rộng 200 hải lý, tính từ đường cơ bản, gọi là vùng kinh tế độc quyền. Trong khu vực biển này quốc gia chỉ có « quyền chủ quyền » về kinh tế mà thôi.

Lập luận của TQ thường thấy các học giả dẫn ra để biện hộ cho yêu sách « chủ quyền » về « vùng biển đường chữ U » là « Quyền lịch sử - droit historique ».

Vấn đề là UNCLOS không nhìn nhận « quyền lịch sử » của bất kỳ quốc gia nào ở một vùng biển nào đó. Luật Biển 1958 có nhắc về « vịnh lịch sử », nhưng Biển Đông rộng lớn như thế không thể gọi là một « vịnh ». Một số trường hợp ngoại lệ, « vùng biển lịch sử » giữa VN và Kampuchia, được hai bên đồng thuận xác định chung quanh đảo Phú Quốc và bờ biển hai nước. Không nước nào phản đối vùng biển lịch sử này của VN và Kampuchia. Hình thể địa lý, biển này chỉ quan hệ giữa hai nước mà không có tàu bè nước ngoài vãng lai. Trong khi Biển Đông là một biển chung, có đến 7 nước bao bọc chung quanh. Nơi đây cũng là một hải đạo quan trọng, chiếm đến hơn 40% trọng lượng hàng hóa lưu thông trên thế giới. Biển Đông vì vậy còn mang yếu tố quốc tế.

TQ sẽ không bao giờ thuyết phục được quốc gia nào nhìn nhận lý lẽ « quyền lịch sử » của họ. Nhưng dầu vậy ta cần tìm hiểu nguyên nhân xuất phát (lịch sử) và hiệu quả pháp lý của « quyền lịch sử » để có thể phản biện được lập luận của TQ một cách hữu hiệu.

1/ Quyền lịch sử.

Thuật ngữ « quyền lịch sử » có lẽ lần đầu sử dụng tại một số nước Châu Phi sau khi Thế chiến thứ II chấm dứt. Nguyên nhân bắt nguồn từ hậu quả các cuộc phân định biên giới tự tiện nhằm phân chia vùng ảnh hưởng giữa các đế quốc thực dân như Anh, Pháp.

Lục địa Phi Châu, ngoại trừ một phần nhỏ vùng Cận và Trung Đông (biên giới giữa Ba Tư và đế quốc Ottoman được phân định từ năm 1639), biên giới tại đây hầu hết chỉ được phân định trong khoản thời gian ngắn ngũi từ năm 1885 đến năm 1914. Việc phân định này được hoạch định giữa đại diện các cường quốc trong phòng giấy, thế nào để thuận tiện cho việc phòng thủ quân sự, hay cho việc quản lý hành chánh thuộc địa của các bên, mà không để ý đến địa bàn sinh hoạt của các bộ lạc dân tộc sinh sống trong vùng. Đường biên giới vì thế phần nhiều là các đường thẳng như kinh tuyến, vĩ tuyến, đường theo sống núi, đường phân thủy, đường theo trung tuyến con sông… Hậu quả việc này làm cho nhiều bộ tộc bị phân chia làm hai, làm ba… ngăn cách nhau bằng một đường gạch vô hình gọi là đường biên giới. Nhiều bộ tộc lớn lại không có lãnh thổ, hay nhiều bộ tộc khác nhau, thậm chí thù nghịch với nhau, bị gộp lại chung sống trong một quốc gia. Nhiều nơi chính quyền quốc gia lại do một bộ tộc thiểu số lãnh đạo. Các việc này là đầu mối của các xung đột đẫm máu về lãnh thổ hay chủng tộc trong thế kỷ qua tại lục địa Châu Phi.

Biên giới này gọi là biên giới theo tinh thần Hội nghị Berlin (1884-1885). Đế quốc Anh phân định khoảng 27,5% tổng số chiều dài đường biên giới trên thế giới, trong khi đế quốc Pháp trên 17%. Biên giới này còn gọi là biên giới thuộc địa.

Sau Thế chiến Thứ II, các cường quốc Đức, Ý thua trận phải từ bỏ các thuộc địa của họ tại Châu Á, Châu Phi… theo như nội dung các Hòa ước Hòa bình năm 1948. Biên giới lục địa Châu Phi lần nữa lại xáo trộn. Biên giới được phân chia lại, lần này theo tinh thần mật ước « Yalta » tháng 2-1945. Đó là biên giới « ý thức hệ », nhằm phân chia thế giới thành hai cực « tư bản – cộng sản ».

Sau khi các nước Châu Phi được trả độc lập, đường biên giới do các cường quốc thực dân thành lập trước kia lại được « luật quốc tế » công nhận. Các cường quốc trên thế giới e ngại việc đặt lại đường biên giới sẽ làm bùng nổ một cuộc chiến khác : cuộc chiến giữa các chủng tộc, hay giữa hai nước thuộc địa cũ, nhằm tranh dành lãnh thổ. Nguyên tắc « uti possidetis » (bắt nguồn từ Nam Mỹ) trở thành tập quán quốc tế, được các Tòa án quốc tế áp dụng trong mọi trường hợp giải quyết tranh chấp biên giới. Ý nghĩa nguyên tắc này là « trước (khi độc lập) anh làm chủ nó thì bây giờ anh tiếp tục làm chủ nó ».

Nhưng, trong vài trường hợp, một dân tộc đã sinh sống, đã chăn nuôi trên đồng cỏ, uống nước ở nguồn nước, trên một vùng đất từ bao ngàn năm nay. Bây giờ họ bị ngăn cấm không được đến nơi đó, với lý do mà họ khó có thể chấp nhận, là đất đó nay thuộc về một quốc gia khác. Trong khi vùng « đất mới » dành cho họ lại không có đồng cỏ, nguồn nước nào để họ sinh sống. Họ sẽ sống bằng cái gì ? Những xung đột như thế đưa đến đổ máu. Các bộ tộc đó lên tiếng đòi lại « quyền » của họ : « quyền lịch sử ».

Thuật ngữ « quyền lịch sử » từ đó ra đời.

Nhưng đối với công pháp quốc tế, « quyền lịch sử » không được nhìn nhận như là một « quyền », hay một « lý thuyết pháp lý », để có bất kỳ một hiệu lực pháp lý nào.

Một số trường hợp tranh chấp lãnh thổ Tòa quốc tế phân xử sau đây, « quyền lịch sử » được một bên nhắc đến như không được chấp nhận.

Vụ xử tranh chấp biên giới Burkina-Faso – Mali (CIJ ngày 22-12-1986). Tranh chấp hai bên là chủ quyền các ao hồ và các đồng cỏ chăn nuôi. Lý lẽ của Burkina-Faso dựa lên « quyền lịch sử ». Từ ngàn đời dân chúng của quốc gia này đã sống trên vùng đất đó. Tòa bác lý lẽ « quyền lịch sử » của Burkina-Faso nhưng Tòa phân xử rằng vùng đất đó thuộc về Burkina-Faso vì lý do dựa lên nguyên tắc « effectivité », (chứ không do « quyền lịch sử »). Trước Tòa phía Burkina-Faso đã dẫn ra những chứng cứ chứng tỏ được các hành vi thể hiện thẩm quyền quốc gia (thuế má, cảnh sát, các thủ tục hành chánh…) tại các vùng đất đó.

Thí dụ khác, trong vụ xử tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan, một vùng khoảng 10% vùng tranh chấp được xem thuộc Pakistan do « quyền lịch sử ». Tòa Trọng tài (PCA, 19-12-1968) quyết định giao khoảng 10% vùng tranh chấp này cho Pakistan, cũng lý do « effectivité ». Nhưng thực ra vùng đất này không thể giao cho Ấn Độ. Từ bao đời nay dân phía (Pakistan) đã sinh sống và khai thác ở đó. Nguyên tắc « uti possodetis » ở đây được tòa áp dụng nhưng có điều chỉnh khéo léo để tránh gây xung đột cho đôi bên.

Ta có thể nhắc trường hợp của VN với nhóm dân tộc thiểu số Khmer sống ở miền Nam hay chủ quyền của VN tại một số đảo trong vịnh Thái Lan. Theo nguyên tắc « uti possidetis », sau khi độc lập, lãnh thổ của VN là lãnh thổ do hành chánh thuộc địa Pháp để lại. Dầu vậy, một đảng chính trị Khmer, nhân danh « quyền lịch sử » lên tiếng đòi lại các lãnh thổ hay đòi tự trị khu « Khmer Khrom ». Mặc dầu, phía Thái Lan cũng có thể nhân danh « quyền lịch sử » như vậy để đòi lại các tỉnh phía hữu ngạn sông Cửu Long, bao gồm khoảng ½ diện tích nước Kampuchia.

Ta cũng có thể nhắc thí dụ tranh chấp giữa Bolivie và Chili về đòi hỏi một « hành lang ra biển » cho Bolivie. Nguyên nhân, khoảng một thế kỷ rưởi trước, vùng đất phía bắc Chili thuộc Bolivie. Nhưng nước này thua trận phải bỏ vùng đất này cho Chili, do đó mất phần đất giáp biển. Hiện nay Bolivie nhân danh « quyền lịch sử » để đòi Chili nhượng một hành lang để nước này có đường thông ra biển.

2/ Trung Quốc có quyền lịch sử ở biển Đông ?

Để biện hộ « quyền lịch sử » của TQ trên biển Đông, các học giả TQ thường nhắc  đến các yếu tố : 1/ quan hệ thuợng quốc - chư hầu giữa VN và TQ. 2/ từ ngàn năm nay, ngư dân người Hoa vẫn đánh cá ở khu vực biển Đông. 3/ đường 9 đoạn chữ U, kế thừa từ chính phủ Trung Hoa Dân quốc. 4/ TQ có chủ quyền tại HS và TS do nội dung của hòa ước tháng 4-1952 ký kết với Nhật. Các học giả TQ cho rằng những sự kiện này chứng minh TQ có « quyền lịch sử » ở vùng biển này.

2.1 Do quan hệ thượng quốc – chư hầu giữa TQ và VN.

Trên phương diện pháp lý, quan hệ « thuợng quốc – chư hầu » giữa VN và TQ đã chấm dứt sau Hiệp ước 15 tháng 3 năm 1874, còn gọi là hiệp ước « Hoà Bình và Liên Minh », ký kết giữa đại diện triều đình nhà Nguyễn với đại diện nước Pháp quốc. Điều 2 của Hiệp ước, phía VN đơn phương tuyên bố không còn thần phục TH nữa. Đến năm 1885, một Hiệp ước khác được ký giữa Pháp và nhà Thanh, còn gọi là Hiệp ước Thiên tân, nước TH chính thức từ bỏ quyền thượng quốc ở VN cho Pháp.

Về ý nghĩa của quan hệ « thuợng quốc – chư hầu », các học giả đương đại TQ thổi phồng quá lố về tính pháp lý của nó.  

Lần đầu tiên phía Trung Hoa chính thức nhắc đến quan hệ « thuợng quốc – chư hầu » trước các cường quốc Tây Phương là ông Tăng Kỷ Trạch, đang nhiệm-sở ở St Péterbourg. Ông này nhân việc vua Tự Đức, sau khi đã ký hòa ước 1874 với Pháp, vẫn tiếp tục sai sứ triều cống, lên tiếng trước giới ngoại giao Tây Phương rằng hình thức « thượng quốc – chư hầu » giữa Trung Hoa và Việt Nam tương tự như hình thức bảo hộ (protectorat).

Việc so sánh này hoàn toàn sai. Trên thực tế, Trung Hoa chưa bao giờ có thể can thiệp trực tiếp hay ảnh hưởng vào nội bộ VN trong tất cả mọi lãnh vực, từ kinh tế, quân sự đến việc liên hệ ngoại giao với các nước khác. Việt Nam hành sử thực tế như một nước độc lập. Trong khi quan hệ "bảo hộ", phía bảo hộ có toàn quyền cai trị, từ pháp luật, kinh tế cho đến quân sự, ngoại giao...

Trên quan điểm công pháp quốc tế, việc triều cống (thể hiện quan hệ thuợng quốc – chư hầu) không nói lên được tính « effectivité », tức những hành vi hành sử quyền chủ tể của đế quốc trên vùng lãnh thổ của nước chư hầu.

2.2 Về lý do từ ngàn năm nay ngư dân người Hoa vẫn đánh cá ở khu vực biển Đông,

Các học giả TQ quên mất một điều là ngư dân các nước khác đồng thời cũng đánh cá ở đó. Vịn vào yếu tố này, phía TQ có thể « chơi dao hai lưỡi ». Vì nếu tính lùi thời gian, đâu phải lúc nào đất của TQ cũng mở rộng như vậy ? Trong khi lãnh thổ của VN có lúc mở ra giáp đến Phúc Kiến. Mặt khác, các vùng Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương... thậm chí Đài loan, hay các tỉnh Hoa Nam... đều có thể nhân danh « quyền lịch sử » để lên tiếng đòi độc lập. Nếu VN và các nước có tranh chấp với TQ, ủng hộ các đòi hỏi này thì TQ sẽ rất lúng túng.

2.3 Do kế thừa đường 9 đoạn chữ U do nhà nước Quốc Dân thành lập năm 1947.

Điều này có nhiều phần miễn cưỡng và thiếu minh bạch.

Nhà nước Quốc Dân đặt trên nền tảng lý thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên, được thành hình qua 3 giai đoạn: giai đoạn một là giai đoạn quân quản (1925-1927), thời kỳ chinh phục lãnh thổ từ các lãnh chúa địa phương. Giai đoạn hai là giai đoạn giám hộ, là giai đoạn giáo dục người dân để chuẩn bị cho sinh hoạt dân chủ. Giai đoạn ba là giai đoạn hiến định. Giai đoạn Hiến định bắt đầu do bản Hiến pháp được thành lập tháng 12 năm 1946 và có hiệu lực năm sau, tháng 12 năm 1947.

Theo tài liệu từ nguồn văn khố Pháp quốc, bầu cử Quốc hội Trung Hoa Dân quốc được tổ chức, từ 21 đến 23 tháng 11 năm 1947, trong 32 tỉnh, huyện trên tổng số 47 (vì các nơi khác do cộng sản kiểm soát). Cứ 500.000 dân thì một đại biểu được bầu. Mặt khác, các thành phần dân tộc Mông, Tạng, Hồi hay các hội đại diện phụ nữ, các liên đoàn công nhân, các tổ chức nghề nghiệp, các dân tộc thiểu số cũng được ưu tiên có đại diện tại quốc hội. Riêng ở những vùng bị CS chiếm đóng, các đại biểu được chỉ định.

Báo chí phía CS của Mao Tạch Đông chỉ trích, cho rằng đây là cuộc bầu bán “giả tạo”.

Quốc hội nhóm họp ngày 29-3, nhân ngày kỹ niệm 72 liệt sĩ Hoàng Hoa Cương (Quảng Đông) năm 1911. Buổi họp này biểu lộ đúng như bản chất mà báo CS đã phê bình. Tranh chấp quyền hành đã biểu lộ ngay từ ngày đầu. Hai đảng Thanh Hoa (Jeune Chine) và đảng Dân chủ Xã hội đảng (social-démocrate) đã được bảo đảm mỗi đảng được dành cho một số ghế, nhưng các đảng viên Quốc Dân đảng ở địa phương lại không tuân theo chỉ thị, do đó sinh ra việc đại biểu đắc cử nhưng không được tham gia vào quốc hội. Các đảng kia do đó tố cáo « việc bầu cử không hợp pháp ».

Dầu vậy, quốc hội này cũng làm được một số công việc, trong đó có việc khẳng định « các quyền bất khả thời hiệu (droits imprescriptibles) của TQ tại Hoàng Sa ». Hoàn toàn không hề nhắc đến « bản đồ 9 đoạn chữ U » cũng như không hề đề cập đến chủ quyền quần đảo Trường sa ở phía nam.

Như thế nhà nước TQ ở Bắc Kinh hiện nay « kế thừa » bản đồ chữ U (và quần đảo TS) là kế thừa từ ai ?

Một số học giả cho rằng nguồn gốc bản đồ chín đoạn chữ U đến từ sáng kiến của một tư nhân.
Theo công pháp quốc tế, một nhà nước chỉ có thể kế thừa các hành vi thuộc về lãnh thổ từ một nhà nước tiền nhiệm, chứ không thể kế thừa từ một « sáng kiến » của tư nhân.

Về lý do theo nội dung Hòa ước Nhật-Hoa ngày 24-4-1952, hai quần đảo HS và TS đã được Nhật trả cho TQ.

Điều này hoàn toàn không đúng. (Xem thêm ở đây http://nhantuantruong.blogspot.fr/2015/05/hoa-uoc-trung-nhat-1952-phai-chang-mac.html )

Hội nghị San Francisco được tổ chức một năm trước đó, 1951. Theo tinh thần Hòa ước này, Nhật tuyên bố từ bỏ các vùng đất đã chiếm, trong đó có HS và TS. Nhân dịp này, Thủ tướng VN là ông Trần Văn Hữu, long trọng tuyên bố thâu hồi hai quần đảo này về cho VN. Các nước hiện diện trong hội nghị không nước nào phản đối.

Năm sau, Nhật ký hòa ước với nhà nước TH Dân quốc. Ở thời điểm này Nhật đã từ bỏ HS và TS, phía VN đã tuyên bố thâu hồi, thì còn đâu mà giao lại cho TQ ? Nội dung hòa ước Nhật-Hoa chỉ nhắc lại nội dung của hòa ước San Francisco 1951, trong đó xác định Nhật phải từ bỏ vĩnh viễn chủ quyền ở Đài Loan, Bành Hồ, HS và TS nhưng không xác định là giao cho nước nào.

Các học giả Đài Loan cũng nại việc kế thừa và liên tục quốc gia để cho rằng HS và TS thuộc TQ.
Trước 1945, Nhật sát nhập TS vào Đài loan và cho một số lính gốc Đài loan canh giữ một số đảo. Nhưng người ta không thể kế thừa cái gì mà nhà nước tiền nhiệm đã từ bỏ. Nhật đã từ bỏ các đảo này theo tinh thần hòa ước San Francisco 1951.

Trong tranh chấp các đảo trong Hồng Hải giữa hai nước Yemen và Erythrée được tòa Trọng tài xử ngày 9-10-1998, phía Erythrée vịn vào lý do liên tục quốc gia. Trước kia chủ quyền các đảo thuộc về Ý, sau đó chuyển sang cho Ethiopie sau Thế chiến thứ II (Erythrée thuộc Liên bang Ethiopie từ năm 1962, đến năm 1993 thì tuyên bố độc lập). Nhưng tòa bác bỏ lý lẽ này, bởi vì nhà nước tiền nhiệm là Ý, chiếu theo hòa ước 1948 thì phải tuyên bố từ bỏ các lãnh thổ trong khu vực. Tòa cho rằng Erythrée không thể kế thừa cái mà nhà nước tiền nhiệp đã từ bỏ.  

Như thế, những lý lẽ mà học giả TQ cố gắng dung để chứng minh « quyền lịch sử » của nước họ tại biển Đông là hoàn toàn phí lý, không thuyết phục. Trong khi trên quan điểm quốc tế công pháp, đã nói trên, quyền này không hề được thừa nhận.

3/ Kết luận : Hiện nay, căn bản pháp lý của phía TQ là dựa lên tuyên bố đơn phương 1958 của ông Phạm Văn Đồng cũng như các tài liệu sách báo, bản đồ v.v... của nhà nước VNDCCH sản xuất. Các tài liệu này minh thị và mặc thị công nhận hai quần đảo HS và TS thuộc TQ.

Nhưng những « bằng chứng » này không có hiệu lực pháp lý.

Một văn bản pháp lý (như tuyên bố đơn phương 1958 của ông Phạm Văn Đồng) chỉ có hiệu lực pháp lý khi nó không đi ngược lại các nguyên tắc pháp lý.

Tuyên bố 1958 của ông Đồng đã vi phạm nội dung Hiệp định Genève (khai sinh ra hai miền nam và bắc VN) ở khoản : VN là một nước độc lập, có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ba miền trung, nam, bắc. Khoản này được tái xác định theo Hiệp định Paris 1973. Tuyên bố 1958 (chỉ là ý kiến của một thành phần VN), có nội dung liên quan vấn đề lãnh thổ, hải phận quốc gia. Nếu nội dung văn bản đi ngược tinh thần hai hiệp định nền tảng, văn bản này không có hiệu lực pháp lý.


Các văn hóa phẩm, như các bài báo, bản đồ… xuất bản ở miền Bắc, trong khoản thời gian 1954-1975, cũng vậy. Nó không thể hiện ý nguyện toàn thể quốc dân Việt Nam. Nếu chúng đi ngược lại nội dung các văn kiện pháp lý nền tảng, chúng cũng đều không có giá trị pháp lý.