mardi 29 janvier 2013

Việt Nam học được điều gì qua vụ Phi kiện Trung Quốc ?


Ý kiến về việc kiện TQ ra một trọng tài quốc tế là không mới. Nhiều học giả trong quá khứ đã từng đặt vấn đề. Monique Chemillier-Gendreau qua hồ sơ « La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys » hay Brice M. Claget thuộc tổ hợp luật sư Covington&Burling qua tập hồ sơ « Những yêu sách đối kháng của Việt Nam và Trung Quốc ở khu bãi ngầm Tư Chính và Thanh Long »… là những thí dụ điển hình. Đây là những công trình nghiên cứu khoa học, có thể đặt làm nền tảng lịch sử và pháp lý cho hồ sơ của VN. Tuy nhiên, các hồ sơ này khó có thể áp dụng nguyên trạng, VN có thể thua kiện (hay bị thiệt hại) vì hồ sơ pháp lý của VN có khiếm khuyết. Lý ra, hồ sơ này cần được các học giả VN nghiên cứu sâu xa thêm để bổ túc.

Vụ Phi đệ đơn kiện Trung Quốc đầu tuần trước đã làm nóng lại vấn đề kiện tụng.

Học giả VN đã khen rằng « Phi đã rất khôn ngoan », cho rằng Phi đã « lách qua một khe cửa hẹp » của Luật quốc tế về Biển.

Thực ra thì chẳng có gì khôn ngoan trong việc này. Vì đây chỉ là một thủ thuật khá đơn giản của giới luật gia. Một người bình thường, không phải là chuyên gia về luật Biển, sau khi nắm được những gì mà phía Trung Quốc bảo lưu, chỉ cần nghiền ngẫm bộ Luật quốc tế về Biển 1982 và tham khảo một số vụ án mẫu của các Tòa quốc tế, cũng có thể thấy được kẻ hở này.

Xét hồ sơ kiện của Phi, hồ sơ đặt căn bản trên việc diễn giải giải khác nhau giữa các bên về một điều ước trong UNCLOS, ở đây là những vấn đề chung quanh cách diễn giải của điều 121. Tại sao Phi không kiện TQ về vấn đề chủ quyền và việc phân định ranh giới biển ?

Bởi vì phía Trung Quốc, qua tuyên bố này 26-8-2006, đã bảo lưu như sau :

Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào được qui định theo mục 2, Phần XV của Công ước đối với tất cả các loại tranh chấp được ghi ở các khoản a), b) và c) của điều 298 của Công ước.

Tức là phía Trung Quốc từ khước các thủ tục giải quyết của Luật Biển, trong việc hoạnh định ranh giới các vùng biển hay tranh chấp về vịnh hay danh nghĩa lịch sử.

Từ sau vụ tàu Bình Minh bị cắt cáp, ngày 24-6-2011 tác giả có viết bài « Việt Nam cần điều chỉnh lại chiến lược biển Đông », có viết như sau :

« … khi việc diễn giải một điều ước trong bộ Luật biển giữa hai nước có mâu thuẫn, chiếu theo điều 286 của luật biển 1982, nếu tranh chấp không thể giải quyết bằng thuơng thuyết, các bên liên quan có thể đưa ra một trọng tài để xét xử. …Hiệu lực các đảo theo điều 121 có thể phân xử bằng một trọng tài quốc tế. Bởi vì, nếu các bên tranh chấp có những cách diễn giải đối nghịch nhau về một điều ước trong bộ Luật biển 1982, thì cơ quan có thẩm quyền giải thích các điều ước của bộ luật này là một trọng tài quốc tế. »

Ta thấy ý kiến của Phi đâu có mới mẻ gì, cũng đâu có « khôn ngoan » gì, (vì người viết còn viết ra được), như học giả VN đã nói ? (Cũng thật phiền khi nghe học giả khác kể công rằng việc Phi kiện TQ là dựa trên ý kiến của mình !)

Vấn đề kiện tụng đặt ra đúng lúc. Tuy nhiên nhà nước VN hiện nay có chủ trương « khai thác chung » với Trung Quốc chứ không muốn giải quyết những tranh chấp.

Ngày 11-10-2011, hai bên Việt-Trung đã ký « Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa », theo điều 3 và điều 4 :  

3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC). Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam - Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.

4. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này

Việc « hợp tác cùng phát triển » là định hướng chủ đạo. Có thể vì vậy nên không có hồ sơ nào của học giả VN lập ra để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của mình tại HS và TS bằng phương hướng luật pháp. Nhiều học giả Việt Nam, kể cả một tổ chức chính trị vừa mới được thành lập, cũng chủ trương « khai thác chung » với Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là việc khai thác chung đó được đặt trên nguyên tắc nào ?

Đề nghị « gác tranh chấp cùng khai thác » không phải là mới, từ thập niên 90, đã có nhiều học giả nước ngoài đề nghị. Trong tất cả các đề nghị, không thấy giải pháp nào là « công bằng », không gây thiệt hại cho VN.

Nguyên tắc hợp tác giữa hai bên một mạnh một yếu là nguyên tắc của kẻ mạnh.

Trở lại vụ kiện của Phi, trên trang web của Bộ Ngoại giao Phi, có đăng bài giải thích vì sao Phi kiện TQ, dưới hình thức câu hỏi và câu trả lời. Trong đó có câu hỏi như sau :

Hỏi : tại sao chúng ta không khai thác chung với Trung Quốc ?

Trả lời : việc khai thác chung, theo nguyên tắc của Trung Quốc đặt ra, thì trái ngược với luật pháp của Phi. Việc khai thác chung phải phù hợp với luật pháp của Phi.

Tức là, việc khai thác chung, lập trường của TQ trước sau không đổi, là nguyên tắc của Đặng Tiểu Bình : khai thác chung nhưng chủ quyền thì thuộc về Trung Quốc. Vì nếu TQ đồng ý khai thác theo quan điểm của Phi, việc khai thác chung đã thực hiện.

Như vậy, việc « khai thác chung » là trái với qui định của luật lệ của VN, giống như trường hợp của Phi.

Một câu hỏi và trả lời khác, cũng nên nghiền ngẫm, trong văn kiện giải thích vì sao Phi kiện TQ :

Hỏi : tại sao dân Phi cần ủng hộ hành động này ?

Trả lời : nếu người ngoài vào nhà của mình, cướp đi một vật của mình, thì phản ứng của mình như thế nào ? Hành động của chúng ta là nhằm bảo vệ lãnh thổ và vùng biển của tổ quốc mình.

Nếu cần phải khen hành động của Phi, thì nên khen ngợi những lập luận này. Những lập luận chính đáng này đã thúc đẩy Phi làm việc đó.

Mà ý kiến của các câu hỏi-trả lời này, từ rất lâu, nhiều lần, tác giả cũng đã viết với nội dung tương tự :

« Một tên cướp, vào nhà người ta đòi chia hai ngôi nhà với chủ. Trường hợp này chủ nhà sẽ “bảo vệ” chủ quyền ngôi nhà của mình hay là tìm phương pháp giải quyết “tranh chấp” với kẻ cướp ?

Vấn đề, lẽ ra chỉ là việc “bảo vệ chủ quyền” lại trở thành việc giải quyết  “tranh chấp chủ quyền”. »

Điều tác giả muốn nhấn mạnh trong bài này, dường như khuynh hướng muốn VN kiện Trung Quốc tăng cao trong dư luận VN. Đây sẽ là điều tốt. Đánh một đối thủ mạnh hơn mình nhiều lần thì cần phải đánh liên hoàn, theo lối « quần hồ » vây « mãnh hổ ». Nhưng có nhiều điều cần suy nghĩ lại.

Thứ nhứt, VN không nên hấp tấp kiện TQ ở Trường Sa. Hồ sơ Trường Sa tuy nóng nhưng phải giải quyết lúc « nguội », mà nên kiện ở vấn đề Hoàng Sa, một hồ sơ « đóng băng » vì để quá lâu. Mặt khác, chuyện Trường Sa nên để cho Phi giải quyết. Không phải vụ kiện của Phi cũng giúp cho VN giải quyết các vấn đề mấu chốt ở TS hay sao ?

Vấn đề nên nghiên cứu là VN sẽ kiện về cái gì ở Hoàng Sa và kiện ở đâu ?

Vì thiếu thông tin từ nội bộ VN, người viết loáng thoáng nghe tin hiện hai bên Việt-Trung đang phân định vùng ngoài cửa vịnh Bắc Việt. Phía TQ đòi (?) chia theo đường trung tuyến, tính từ đường cơ bản quần đảo Hoàng Sa với bờ biển VN.  

Việt Nam hiện nay « bí lối », không có lý lẽ nào để phản biện lại TQ về chủ quyền của nước này tại HS. Phương pháp mà VN đã và đang làm, là tìm cách làm giảm hiệu lực (theo điều 121, khoản 3 UNCLOS) các đảo HS để bớt thiệt hại. Đây cũng là việc mà các « học giả » VN đã và đang nỗ lực để làm.

Nhưng việc này cho thấy hoài công, ít ra là không có kết quả cho đến nay. Bởi vì, nếu mình không biết Trung Quốc muốn gì, các việc làm này sẽ chỉ kéo dài thời giờ, mà việc này càng gây khó khăn cho VN. Biết địch biết ta, địch mạnh hơn ta nhiều lần, chưa chắc thắng. Đằng này, địch mạnh hơn ta nhiều lần mà ta hoàn toàn không biết gì về địch. Kết quả ta chỉ có thua, mà thua cháy túi.

TQ chiếm HS và sẽ chiếm TS vì muốn kiểm soát  toàn bộ biển Đông. Đó là « không gian sinh tồn » của TQ. Thuơng lượng với TQ để giảm hiệu lực các đảo HS và TS là làm việc viễn vông, mất thời giờ. Vì chủ ý của TQ là chiếm HS (và TS) là để thực hiện một chiến lược đã thành hình từ 6, 7 thập niên nay. Người viết đã nhiều lần cảnh báo.

Vấn đề là, VN không thể để TQ chiếm các đảo TS. Nếu họ chiếm, điều này đồng nghĩa với việc VN mất toàn bộ vùng biển của mình. Mặt khác, nếu không thể lấy lại HS, thì phải giảm thiểu những đòi hỏi quá lố của TQ ở vùng của vịnh Bắc Việt (và sau đó vùng biển các tỉnh miền trung).

Vấn đề HS, theo tôi, VN có thể áp dụng điều 284 UNCLOS để hòa giải với TQ qua trung gian một nước nào đó. VN có thể áp dụng các trường hợp như đã áp dụng tại vùng Địa Trung Hải, tách rời từng phần cột nước, thềm lục địa và chủ quyền các đảo, sau đó thuơng lượng với TQ từng vấn đề một.
Trước mắt là phân định cột nước. Ngư dân VN cần an ninh để khai thác vùng biển HS vì đó là ngư trường truyền thống. Nên thành lập một vùng « đánh cá chung » ở HS, như trong vịnh Bắc Việt. 

dimanche 27 janvier 2013

Phi đã sơ sót điều gì trong hồ sơ kiện Trung Quốc ?


Ngày 23 tháng giêng năm 2013, trên trang web của của Bộ Ngoại giao Phi (DFA), có đăng văn bản giải thích, qua hình thức câu hỏi và trả lời, các thủ tục và nguyên nhân vì sao Phi kiện Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp tại biển Tây Phi. Theo văn bản này, bộ Ngoại giao Phi đã chuyển công hàm đến tòa Đại sứ Trung quốc tại Manille vào chiều ngày 22-1-2013, cho biết Phi đã nộp hồ sơ đưa Trung Quốc ra Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Quốc Tế về Biển 1982. Ngoại trưởng Albert del Rosario sau đó họp báo và giải thích, sở dĩ Phi đã phải dùng tới giải pháp này vì đã cạn kiệt mọi giải pháp chính trị và ngoại giao nhằm giải quyết tranh chấp hòa bình với Trung quốc tại Biển Tây Phi (WPS).

Theo công hàm gởi Tòa và Đại sứ TQ tại Manille, hồ sơ kiện của Phi được thành lập gồm 7 phần và 43 điều. Phần I “Giới thiệu”, từ điều 1 đến điều 8. Phần II “Bối cảnh”, từ điều 9 đến điều 30, được phân ra làm 4 tiểu đoạn A, B, C, D. Phần III “Nội dung kiện”, điều 31. Phần IV “Thẩm quyền của Tòa trọng tài”, từ điều 32 đến điều 40. Phần V “Yêu cầu chế tài”, điều 41. Phần VI “Chỉ định trọng tài”, điều 42. Phần VII “Quyền bảo lưu”, điều 43.

Ngay từ dòng đầu tiên, điều 1, Phần I “Giới thiệu”, ta có thể thấy tức khắc Phi muốn kiện Trung Quốc ở các điều gì. Đó là: “phản đối yêu sách của Trung Quốc đối với các khu vực trên biển Đông và vùng đáy biển cách bờ biển gần nhứt của Trung Quốc là 870 hải lý”, vì các khu vực biển này “Trung Quốc không có quyền theo Công ước về Luật biển 1982 (UNCLOS)” đồng thời “các vùng biển này tạo nên vùng Kinh tế độc quyền (EEZ) và thềm lục địa của Phi”.

Điều 6, cũng trong phần I, Phi mong muốn Tòa có những phán quyết, bao gồm 3 ý nghĩa chính:
1) yêu sách của TQ dựa trên đường 9 đoạn là không phù hợp với UNCLOS và vô giá trị;
2) xác định tình trạng pháp lý một số cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng có yêu sách chủ quyền, theo điều 121, chúng có phải là “đảo”, bãi cạn, bãi chìm hay không? Các cấu tạo này có quyền được hưởng vùng biển rộng hơn 12 hải lý hay không?  3) tạo điều kiện cho Phi được hưởng các quyền của mình.

Từ mong muốn được Tòa phán quyết trên 3 thỉnh nguyện ở điều 6, phần III “Nội dung kiện” 3 thỉnh nguyện này được chi tiết hóa, trở thành 10 điểm yêu cầu Tòa tuyên bố, tóm lược như sau:
1.    Các quyền của TQ và Phi ở biển Đông phải tuân thủ theo UNCLOS.
2.    Yêu sách đường 9 đoạn của TQ là vô giá trị.
3.    Các cấu tạo lúc chìm lúc nổi, không nằm trong lãnh hải các quốc gia ven biển, thuộc đáy biển, thì không thể chiếm hữu, ngoại trừ cấu tạo đó nằm trên thềm lục địa của quốc gia theo phần VI UNCLOS.
4.    Các bãi Vành Khăn, Mc Kennan, Xi Bi và Gaven là các cấu tạo chìm khi thủy triều lên, không phải là đảo theo qui định của điều 121 UNCLOS, cũng không nằm trên thềm lục địa TQ, việc TQ chiếm đóng có trái phép hay không và việc xây dựng trên các bãi cạn này có trái phép hay không ?
5.    Bãi Vành Khăn và McKennan thuộc thềm lục địa của Phi theo phần VI của UNCLOS.
6.    Bãi Hoàng Ngam và các đá Châu Viên, Gạc Ma, Chữ Thập là các bãi chìm, ngoài trừ vài mỏm đá nhô trên nước khi thủy triều lên. Chúng chỉ là « đá » theo điều 121 khoản 3 của UNCLOS, vì thế chỉ có thể có lãnh hải không quá 12 hải lý. TQ đã đòi hỏi một cách phi lý quyền mở rộng các vùng biển quá 12 hải lý tại các cấu tạo này. 
7.    TQ đã vi phạm luật pháp khi ngăn cấm các tàu của Phi khai thác các vùng biển cận Hoàng Nham và đá Gạc Ma.
8.    Phi có quyền về lãnh hải 12 hải lý, ZEE 200 hải lý và thềm lục địa, theo các phần II, V và VI của UNCLOS, tính theo đường cơ bản quần đảo của Phi.
9.    TQ đã yêu sách một cách bất hợp pháp các quyền đối với tài nguyên sinh vật và phi sinh vật và đã khai thác phi pháp các tài nguyên này và cũng đã vi phạm pháp luật khi không cho Phi khai thác các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng EEZ và thềm lục địa của mình.
10. TQ đã can thiệp một cách bất hợp pháp quyền tự do hàng hải của Phi được xác định theo UNCLOS.

Từ 10 điểm trong nội dung kiện, Phi yêu cầu Tòa phán quyết ở 13 điểm, theo như điều 41 phần V “Yêu cầu chế tài”. Đối chiếu hai phần “Nội dung kiện” và “Yêu cầu chế tài”, ta thấy  ở điểm 5, 6, 7, 8, 9 thực ra là các điểm thứ tự 4, 5, 6, 7 trong phần “nội dung kiện”. Như thế là từ “Nội dung” đến “Yêu cầu chế tài” không có điều gì mâu thuẩn.

Về 3 ý nghĩa chính ở điều 6, phần I:

Ý nghĩa 1: yêu sách của TQ dựa trên đường 9 đoạn là không phù hợp với UNCLOS và vô giá trị. Ý nghĩa này được đặt ở thứ tự ưu tiên 2 trong phần “Nội dung”, cùng thứ tự trong phần “Yêu cầu chế tài”.

Ý nghĩa 2: Về tình trạng pháp lý một số cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng có yêu sách chủ quyền, theo điều 121, chúng có phải là “đảo”, bãi cạn, bãi chìm hay không? Các cấu tạo này có quyền được hưởng vùng biển rộng hơn 12 hải lý hay không?

Ý nghĩa này được ghi lại qua các điểm 3, 4, 5, 6 trong phần “Nội dung kiện”, sau đó qua các điểm 4, 5, 6, 7, 8 trong phần “Yêu cầu chế tài”.

Ý nghĩa 3: tạo điều kiện cho Phi được hưởng các quyền của mình. Ý nghĩa này được ghi ở các điểm 1, 7, 8, 10 trong phần “Nội dung kiện” và các điểm 1, 10, 12 trong phần “Yêu cầu chế tài”.

Ta thấy, toàn bộ 10 điểm trong nội dung kiện (điều 31), cũng như ở 13 điểm khiếu nại (điều 41), Phi không nhắc lại yêu cầu đã nói ở điều 6 (điểm 2).

Đó là các cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng có yêu sách chủ quyền. Chúng có phải là các “đảo” theo điều 121 của UNCLOS hay không ?

Các cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng có yêu sách chủ quyền bao gồm tất cả các cấu tạo địa chất được giới hạn trong vùng mà Phi đã hoạch định Kalayan, theo đa giác được xác định bằng các tọa độ:  

7° 40’ Bắc – 116° 00’ Ðông
7° 40’ Bắc – 112° 10’ Ðông
9° 00’ Bắc – 112° 10’ Ðông
12° 00’ Bắc – 118° 00’ Ðông
10° 00’ Bắc – 118° 00’ Ðông.

Trong đa giác này, ta thấy có các đảo hiện do Phi kiểm soát : Song Tử Ðông, đảo Dừa, Thị Tứ, Bình Nguyên, Vĩnh Viễn, Loại Ta…

Việc thiếu sót này là do cố ý hay không cố ý ?

Tranh chấp ở Trường Sa phức tạp là do các điểm mờ pháp lý đến từ điều 121 định nghĩa về đảo của UNCLOS.

Theo định nghĩa : 1/ Ðảo là một dải đất tự nhiên, có nước bao bọc chung quanh và không bị nước phủ lúc thủy triều lên. 2/ Một đảo có hải phận, vùng tiếp cận, vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa riêng như trên đất liền, ngoại trừ điều kiện ghi dưới phần. 3/ Những bãi đá (cồn đá) mà người ta không thể sinh sống, hoặc không có một nền kinh tế tự tại thì không có vùng kinh tế độc quyền cũng như không có thềm lục địa.

Các đảo ở Trường Sa, một số đảo có người sinh sống, và dựa theo điều kiện khoa học hôm nay, có thể có một nền kinh tế tự túc. Như vậy chúng có thể được xem là đảo. Nhưng nhiều chuyên gia về Biển trên thế giới thì cho rằng các đảo này chỉ là đảo đá.

Nguyên nhân bất đồng là vấn đề các đảo này có thể có hiệu lực về lãnh hải, vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa hay không ? Có thì là bao nhiêu ?

Việc sơ sót này của Phi (nếu do sơ ý), đã bỏ qua một dịp tốt để Tòa trọng tài cho ý kiến về tình trạng pháp lý của các “đảo” thuộc Trường Sa, nhằm chấm dứt một điểm mờ pháp lý, từ lâu là nguồn cội của những tranh chấp của các nước trong khu vực.

Việc giảng giải các điều ước của UNCLOS hoàn toàn nằm trong thẩm quyền Tòa trọng tài.

Nếu là một sơ sót, Phi cần nhanh chóng bổ túc hồ sơ, như đã bảo lưu ở điều 43. 

vendredi 25 janvier 2013

Phi kiện Trung Quốc: Lợi ích và kinh nghiệm nào cho phía Việt Nam ?


1/ Phi kiện Trung Quốc về các điều gì ?


Ngày 23 tháng giêng năm 2013, trên trang web của của Bộ Ngoại giao Phi (DFA), có đăng văn bản giải thích, qua hình thức câu hỏi và trả lời, các thủ tục và nguyên nhân vì sao Phi kiện Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp tại biển Tây Phi. Theo văn bản này, bộ Ngoại giao Phi đã chuyển công hàm đến tòa Đại sứ Trung quốc tại Manille vào chiều ngày 22-1-2013, cho biết Phi đã nộp hồ sơ đưa Trung Quốc ra Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Quốc Tế về Biển 1982. Ngoại trưởng Albert del Rosario sau đó họp báo và giải thích, sở dĩ Phi đã phải dùng tới giải pháp này vì đã cạn kiệt mọi giải pháp chính trị và ngoại giao nhằm giải quyết tranh chấp hòa bình với Trung quốc tại Biển Tây Phi (WPS).

Theo công hàm gởi Tòa và Đại sứ TQ tại Manille, hồ sơ kiện của Phi được thành lập gồm 7 phần và 43 điều. Phần I, giới thiệu bối cảnh, từ điều 1 đến điều 8. Phần II “Bối cảnh”, từ điều 9 đến điều 30, được phân ra làm 4 tiểu đoạn A, B, C, D. Phần III “Nội dung kiện”, điều 31. Phần IV “Thẩm quyền của Tòa trọng tài”, từ điều 32 đến điều 40. Phần V “Yêu cầu chế tài”, điều 41. Phần VI “Chỉ định trọng tài”, điều 42. Phần VII “quyền bảo lưu”, điều 43.

Ngay từ dòng đầu tiên, điều 1 Phần mở đầu, ta có thể thấy tức khắc Phi muốn kiện Trung Quốc ở các điều gì.    

Phần mở đầu, “Lời giới thiệu”:

Điều 1, Phi cho biết việc kiện của Phi là nhằm : “phản đối yêu sách của Trung Quốc đối với các khu vực trên biển Đông và vùng đáy biển cách bờ biển gần nhứt của Trung Quốc là 870 hải lý”, bởi vì các khu vực biển này “Trung Quốc không có quyền theo Công ước về Luật biển 1982 (UNCLOS), mà các vùng biển này tạo nên vùng Kinh tế độc quyền (EEZ) và thềm lục dịa của Phi”.

Điều 2, tố cáo Trung Quốc không thực thi UNCLOS một cách có thiện chí, như việc vạch tự tiện đường 9 đoạn chữ U, ngược với tinh thần điều 300 của UNCLOS.

Điều 5, Phi phản đối việc TQ thành lập đơn vị hành chính trực thuộc đảo Hải Nam và chính quyền tỉnh áp dụng luật một cách tự tiện.

Điều 6, Phi mong muốn có một phán quyết, bao gồm 3 ý nghĩa chính: 1) yêu sách của TQ dựa trên đường 9 đoạn là không phù hợp với UNCLOS và vô giá trị; 2) xác định tình trạng pháp lý một số cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng có yêu sách chủ quyền, theo điều 121, chúng có phải là “đảo”, bãi cạn, bãi chìm hay không? Các cấu tạo này có quyền được hưởng vùng biển rộng hơn 12 hải lý hay không? và 3) tạo điều kiện cho Phi được hưởng các quyền của mình.

Điều 7, Phi xác định không yêu cầu Tòa trọng tài phán quyết việc bên nào có chủ quyền ở các đảo, cũng không yêu cầu Tòa phân định ranh giới trên biển nhằm để tránh những ràng buộc của tuyên bố bảo lưu của TQ ngày 25-8-2006 về điều 298 UNCLOS (không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa trọng tài).

Từ mong muốn được Tòa phán quyết trên 3 thỉnh nguyện ở điều 6, phần III “Nội dung kiện” 3 thỉnh nguyện này được chi tiết hóa, trở thành 10 điểm yêu cầu Tòa, tóm lược như sau:

1.    Các quyền của TQ và Phi ở biển Đông phải tuân thủ theo UNCLOS. (Các quyền được xác định theo phần II đối với lãnh hải và vùng tiếp giáp, theo phần V đối với vùng ZEE và theo phần VI đối với thềm lục địa).
2.    Yêu sách đường 9 đoạn của TQ là vô giá trị.
3.    Các cấu tạo lúc chìm lúc nổi, không nằm trong lãnh hải các quốc gia ven biển, thuộc đáy biển, thì không thể chiếm hữu, ngoại trừ cấu tạo đó nằm trên thềm lục địa của quốc gia theo phần VI UNCLOS.
4.    Các bãi Vành Khăn, Mc Kennan, Xi Bi và Gaven là các cấu tạo chìm khi thủy triều lên, không phải là đảo theo qui định của điều 121 UCLOS, cũng không nằm trên thềm lục địa TQ, việc TQ chiếm đóng có trái phép hay không và việc xây dựng trên các bãi cạn này có trái phép hay không ?
5.    Bãi Vành Khăn và McKennan thuộc thềm lục địa của Phi theo phần VI của UNCLOS.
6.    Bãi Hoàng Ngam và các đá Châu Viên, Gạc Ma, Chữ Thập là các bãi chìm, ngoài trừ vài mỏm đá nhô trên nước khi thủy triều lên. Chúng chỉ là « đá » theo điều 121 khoản 3 của UNCLOS, vì thế chỉ có thể có lãnh hải không quá 12 hải lý. TQ đã đòi hỏi một cách phi lý quyền mở rộng các vùng biển quá 12 hải lý tại các cấu tạo này. 
7.    TQ đã vi phạm luật pháp khi ngăn cấm các tàu của Phi khai thác các vùng biển cận Hoàng Nham và đá Gạc Ma.
8.    Phi có quyền về lãnh hải 12 hải lý, ZEE 200 hải lý và thềm lục địa, theo các phần II, V và VI của UNCLOS, tính theo đường cơ bản quần đảo của Phi.
9.    TQ đã yêu sách một cách bất hợp pháp các quyền đối với tài nguyên sinh vật và phi sinh vật và đã khai thác phi pháp các tài nguyên này và cũng đã vi phạm pháp luật khi không cho Phi khai thác các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng EEZ và thềm lục địa của mình.
10. TQ đã can thiệp một cách bất hợp pháp quyền tự do hàng hải của Phi được xác định theo UNCLOS.

2/ Thử giải thích ý nghĩ pháp lý các yêu cầu:

Từ 10 điểm trong nội dung kiện, Phi yêu cầu Tòa phán quyết ở 13 điểm, theo như điều 41 phần V “Yêu cầu chế tài”. Các điểm quan trọng ghi lại như sau:

Điểm 1, Phi yêu cầu Tòa phán rằng các quyền của các bên ở biển Đông phải tuân thủ theo UNCLOS. Ở đây nên phân biệt quyền chủ quyền về kinh tế tại vùng độc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa 200 hải lý và các quyền chủ quyền khác (như trên đất liền) tại vùng lãnh hải (12 hải lý) và tiếp cận lãnh hải (12 hải lý), phù hợp với nội dung các phần V, VI và II của UNCLOS. Điểm này Tòa có thể tuyên bố chấp thuận dễ dàng, vì nó thuộc thẩm quyền của tòa và vì nó phản ảnh nội dung của UNCLOS. Lợi ích ở điều này là đặt các yêu sách về quyền của Trung Quốc vào trong khuôn khổ của Luật quốc tế. Trường hợp các tàu vũ trang của TQ đột lốt “hải giám” (mà hành sử như “hải tặc”) ở vùng biển của VN trong vài năm nay, từ nay phải hành sử trong khuôn khổ của Luật quốc tế cho phép.

Điểm hai, Phi yêu cầu tòa tuyên bố yêu sách của TQ qua bản đồ đường 9 đoạn là vô giá trị. Điểm này Tòa có thể tuyên bố thuận, vì vẫn nằm trong thẩm quyền của tòa, do hai lý do : 1/ bản đồ 9 đoạn không có giá trị ràng buộc vì không phải là bản đồ phân định ranh giới, chưa hề được nhìn nhận bởi các bên liên quan như kết quả của một (hay nhiều) kết ước phân định ranh giới biển. 2/ TQ không chứng minh được “quyền lịch sử” hay “vùng nước lịch sử”  của họ tại vùng biển giới hạn trong đường 9 đoạn. (TQ chưa bao giờ thể hiện thẩm quyền chủ tể của họ tại vùng biển này. Giả sử có, thì thẩm quyền này đã không thể hiện một cách liên tục. Trong khi các nước trong khu vực chưa bao giờ, ám thị hay minh thị, chấp nhận thẩm quyền của TQ trong vùng biển).

Nếu Tòa tuyên bố thuận, việc này sẽ buộc phía TQ làm sáng tỏ các luận cứ của mình, nếu muốn duy trì đòi hỏi các quyền chủ quyền ở biển Đông. Phía TQ, có lẽ đã ý thức sự phi lý của bản đồ chữ U, do đó trong thời gian gần đây có khuynh hướng tuyên bố « TQ có chủ quyền không thể chối cãi các đảo HS và HS và vùng biển chung quanh » chứ không nhắc tới “quyền lịch sử” hay vùng “nước lịch sử” tại vùng biển này nữa. Phía TQ phải đưa các chứng cớ cụ thể để chứng minh « chủ quyền không thể chối cãi tại các đảo » và giải thích « vùng biển chung quanh » là vùng biển được xác định theo tiêu chuẩn nào ?

Điểm 3, yêu cầu Trung Quốc sửa luật quốc gia cho phù hợp với UNCLOS. Điều này có thể dễ dàng được Tòa chấp thuận, nếu hai điểm yêu cầu 1 và 2 ở trên được chấp thuận. Tuy nhiên, điều khs khăn là Trung Quốc đòi chủ quyền toàn bộ các đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa, Luật Biển của nước này áp dụng trên các đảo này từ năm 1958.

Ta thấy, điều 6 (điểm 2), phần I “Lời giói thiệu”, ta thấy Phi yêu cầu : xác định tình trạng pháp lý một số cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng có yêu sách chủ quyền, theo điều 121, chúng có phải là “đảo”, bãi cạn, bãi chìm hay không? Các cấu tạo này có quyền được hưởng vùng biển rộng hơn 12 hải lý hay không?

Dầu vậy, toàn bộ 10 điểm trong nội dung kiện (điều 31), cũng như ở 13 điểm khiếu nại (điều 41), Phi hoàn toàn không nhắc lại yêu cầu đã nói ở điều 6 (điểm 2). Đây là do cố ý hay do sơ sót ? Nếu Phi không nhanh chóng sửa đổi hồ sơ, như đã bảo lưu ở điều 43, các điểm mờ về pháp lý của các đảo thuộc Trường Sa vẫn còn nguyên. Việc này dẫn đến các nước có các tuyên bố tự tiện, đối chọi nhau về cách diễn giải điều 121, về hiệu lực của các đảo.

Mặt khác, các cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng dành chủ quyền ở Trường Sa có rất nhiều, là toàn bộ các đảo của Phi hiện đang chiếm, như đảo Thị Tứ. Một điểm khác mà Phi đã quên Việt Nam, một bên đòi hỏi chủ quyền các đảo. Phía Trung Quốc chỉ “đòi miệng” chứ chưa bao giờ, trên phương diện pháp lý và trên thực tế, đã từng đặt chân trên các đảo mà họ đòi chủ quyền. Trong khi các đảo mà Phi hiện chiếm tại TS là do chiếm hữu một cách trái phép của VN, trong các thập niên 60, 70, trong lúc tình trạng chiến tranh hai miền Nam Bắc đã khiến chính quyền Sài Gòn không có đủ phương tiện để bảo vệ các đảo này. Phía VN có đầy đủ tư cách từ pháp lý, đến việc chiếm hữu trên thực tế trong một thời gian dài và liên tục, để chứng minh chủ quyền của VN trên các đảo đó.     

Các điểm 4 và 5, Phi yêu cầu Tòa tuyên bố bãi Vành Khăn và McKennan, vốn là các cấu tạo địa lý chìm thường trực dưới mặt biển,  thuộc thềm lục địa của Phi theo phần VI của UNCLOS và yêu cầu Trung Quốc ngưng chiếm đóng và ngưng các sinh hoạt tại hai bãi này.

Các điểm 6 và 7, Phi yêu cầu Tòa tuyên bố các cấu tạo Xu Bi và Gaven, là các cấu tạo  dưới mặt nước, không thuộc qui chế đảo theo qui định của điều 121 UCLOS, cũng không nằm trên thềm lục địa TQ vì vậy việc Trung Quốc chiếm đó và xây dựng trên các bãi này là trái phép.

Các yêu cầu 4, 5, 6 và 7 là chính đáng, có thể được Tòa chấp thuận, vì thuộc thẩm quyền của tòa. Lý do, các cấu tạo địa lý chìm dưới mặt nước dĩ nhiên không phải là « một lãnh thổ ». Nếu không phải là lãnh thổ thì làm sao có thể chiếm hữu, sau đó xây dựng thành các đảo nhân tạo, từ đó đòi hỏi các quyền chủ quyền ?

Điểm 8, bãi Hoàng Nham và các đá Châu Viên, Gạc Ma, Chữ Thập là các bãi chìm, ngoài trừ vài mỏm đá nhô trên nước khi thủy triều lên. Chúng chỉ là « đá » theo điều 121 khoản 3 của UNCLOS, vì thế chỉ có thể có lãnh hải không quá 12 hải lý. Phi yêu cầu Tòa phán rằng TQ đã đòi hỏi một cách phi lý quyền mở rộng các vùng biển quá 12 hải lý tại các cấu tạo này.

Tuy vậy, phần “Nội dung kiện”, điều 31 điểm 6, yêu cầu của Phi, về các cấu tạo lúc chìm lúc nổi, không nằm trong lãnh hải các quốc gia ven biển, thì không thể chiếm hữu, ngoại trừ cấu tạo đó nằm trên thềm lục địa của quốc gia theo phần VI của UNCLOS. Điểm này không nói lại rõ rệt trong điểm 8 của phần V “Yêu cầu chế tài”.

Yêu cầu của Phi ở điểm này rất chính đáng và hữu ích, vì nó có thể làm sáng tỏ một điểm mờ từ nhiều năm nay trong Luật quốc tế về Biển. Nó sẽ loại bỏ được các đòi hỏi phi lý của các nước về các quyền chủ quyền tại các cấu trúc địa lý lúc nổi lúc chìm, như trường hợp các bãi cạn mà TQ đã cưỡng chiếm bằng vũ lực trong vùng Biển của VN năm 1988.

Phi vịn vào phần VI của UNCLOS để yêu cầu nhưng không có điều nào trong bộ Luật Quốc tế về Biển xác định về tình trạng pháp lý của các cấu tạo lúc chìm lúc nổi.

Trong vụ kiện giữa Qatar và Bahreïn (Qatar đơn phương kiện Bahreïn lên CIJ), Tòa có nói về việc này như sau:

“luật pháp quốc tế im lặng về tình trạng pháp lý của các bãi lúc chìm lúc nổi, các bãi này có thể xem như là một “lãnh thổ” hay không ? luật pháp hiện hành cũng không thể xác định là các bãi đó có thể xem như là một lãnh thổ tương đương với “đảo” hay không”.

Tức UNCLOS không nói gì về tình trạng pháp lý của các bãi lúc chìm lúc nổi.

Vấn đề đặt ra, do kẻ hở pháp lý này, phía TQ có thể chiếm hữu các cấu tạo địa lý này đồng thời tuyên bố các quyền thuộc chủ quyền của họ (về lãnh hải, EEZ, thềm lục địa...), như trường hợp đá Hoàng Nham.

Tuy nhiên, trong vụ tranh chấp giữa Tân Gia Ba và Mã Lai về chủ quyền của các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge qua phán quyết của Tòa án Quốc tế (CIJ) ngày 23-5-2008, ta thấy trường hợp tương tự. South Ledge là một đảo đá lúc chìm lúc nổi, chỉ thấy khi thủy triều thấp. Trường hợp này, tòa có nhắc lại tình trạng mơ hồ về pháp lý của các cấu trúc địa lý này trong vụ án dẫn trên, nhưng Tòa phán rằng South Ledge nằm ở vùng lãnh hải nước nào thì sẽ thuộc chủ quyền của nước đó.

Nếu phán quyết này trở thành một “án lệ”, (và các bãi lúc nổi lúc chìm không được chiếm hữu), yêu cầu của Phi có thể được Tòa chấp thuận.

Một ghi nhận khác, cũng ở điểm 8, dường như Phi, một cách ám thị, đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại các cấu tạo địa lý này. Mà điều này không đúng. Bởi vì các đá Châu Viên, Gạc Ma, Chữ Thập… là các cấu trúc địa lý của VN, vì chúng là một thành phần không thể tách rời của  các đảo cận bên mà các đảo này thuộc về VN.

Có lẽ mục tiêu của Phi là nhằm “khoanh vùng tranh chấp” với Trung Quốc. Vì Tòa không có thẩm quyền phân xử tranh chấp chủ quyền, do đó ý kiến (ám thị) của Phi có thể “vô hại”. Vùng tranh chấp giữa Phi và TQ như vậy được xác định không quá 12 hải lý chung quanh các bãi đá Hoàng Nham, Châu Viên, Gạc Ma và Chữ Thập.

Ngoài việc bảo lưu các đá trên thuộc VN, yêu cầu của Phi là chính đáng. Vì, các đá này nếu thuộc về VN hay của nước nào khác, thì cũng chỉ là “đá” đúng như định nghĩa ở điều 121, khoản 3 của UNCLOS, không thể đòi vùng biển quá 12 hải lý. Ở yêu cầu này Tòa có thể thỏa mãn cho  Phi vì nó thuộc thẩm quyền của Tòa và phù hợp với Luật quốc tế.

Điểm 9, Phi yêu cầu Tòa phán rằng TQ đã vi phạm luật pháp khi ngăn cấm các tàu của Phi khai thác các vùng biển cận Hoàng Nham và đá Gạc Ma. Nhưng ở điểm này Tòa sẽ khó tuyên bố chấp thuận cho Phi, vì các đá này có phần nổi thường trực trên mặt nước, do đó TQ có quyền chiếm hữu. Nếu đá đó thuộc chủ quyền của TQ, các tàu bè của các nước khác, kể cả Phi, không được đi vào trong vòng 12 hải lý tính từ các đá đó để khai thác về kinh tế. Thâm ý của Phi ở đây, vì không được đụng đến vấn đề “chủ quyền” (ngoài thẩm quyền của Tòa do bảo lưu của TQ), do đó nếu yêu cầu này được chấp thuận, các bãi đá này sẽ thuộc về chủ quyền của Phi.

Điểm 10, Phi có quyền về lãnh hải 12 hải lý, ZEE 200 hải lý và thềm lục địa, theo các phần II, V và VI của UNCLOS, tính theo đường cơ bản quần đảo của Phi. Tòa có thể tuyên bố chấp thuận cho Phi sau khi xem xét ít nhứt hai điều: a) đường cơ bản quần đảo của Phi phù hợp với UNCLOS đồng thời không bị các nước khác phản đối. b) không bị chồng lấn bởi hiệu lực của các đảo thuộc về một nước khác.

Trên thực tế, các đảo thuộc Trường Sa của VN, là các đảo có thể có người sinh sống và có thể có nền kinh tế tự túc, do đó có thể có một hiệu lực nhứt định về lãnh hải, vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa, chiếu theo điều 121 của UNCLOS. Việc này có thể tạo vùng chồng lấn với vùng EEZ của Phi.
Yêu cầu của Phi ở điều này cũng có hậu ý. Có thể nhằm mục đích “cắt cỏ dưới chân” các nước có yêu sách đòi quyền chủ quyền ở các đảo Trường Sa, nếu yêu cầu của Phi được Tòa chấp thuận.

Việc Tòa chấp thuận, hàm ý các đảo thuộc Trường Sa quá nhỏ để có thể có xếp vào khoản 3 của điều 121 UNCLOS. Điều này đã đề cập ở phần “Nội dung kiện”  nhưng không đưa vào phần “Yêu cầu chế tài”.

Điểm 11, Phi yêu cầu Tòa phán rằng TQ đã yêu sách một cách bất hợp pháp các quyền đối với tài nguyên sinh vật và phi sinh vật và đã khai thác phi pháp các tài nguyên này, cũng như đã vi phạm pháp luật khi không cho Phi khai thác các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng EEZ và thềm lục địa của mình.

Nếu Tòa đáp ứng yêu cầu của Phi ở điểm 10, tức các cấu trúc địa lý thuộc Trường Sa chỉ là đá, theo khoản 3 điều 121 UNCLOS, thì đương nhiên Tòa sẽ chấp thuận yêu cầu của Phi, ngoại trừ các vùng biển bán kính không quá 12 hải lý (điểm 6), tính từ các cấu trúc địa lý nằm trong vùng EEZ của Phi, nếu các cấu trúc này thuộc chủ quyền của nước khác.

Điểm 12, Phi yêu cầu Tòa lên án TQ đã can thiệp một cách bất hợp pháp quyền tự do hàng hải của Phi được xác định theo UNCLOS. Điểm này Phi cần đưa chứng cớ là TQ đã cản trở quyền tự do hàng hải của nước này khi nào ? ở đâu ? trường hợp nào ? Tùy thuộc địa điểm, tùy thuộc vùng biển (lãnh hải hay vùng EEZ) mà Tòa có thể tuyên bố thuận hay không.

Điểm này Phi cũng có mục tiêu nhắm tới các tàu hải giám của TQ, đã hoạt động một cách ngang ngược trong vùng biển giới hạn bởi tấm bản đồ 9 đoạn.

Điểm 13, Phi yêu cầu tòa tuyên bố Trung Quốc phải chấm dứt các hành vi bất hợp pháp.

3/ VN Có lợi ích gì từ vụ kiện này?

Vụ kiện TQ của Phi, dầu VN không can dự, nhưng cũng là một bên liên quan, như Phi, đối với Trung Quốc. Có điều quan hệ giữa VN và TQ phức tạp vì tròng tréo nhiều điều như văn hóa, lịch sử, chính trị, ơn nghĩa, ý thức hệ… trong khi quan hệ Trung-Phi đơn giản hơn nhiều. Tuy vậy, VN có thể hưởng lợi ở một số điều (theo nội dung vụ kiện) như sau:

Điểm 1, lợi ích là đặt tất cả các bên Trung Quốc, Phi và VN vào trong khuôn khổ của Luật quốc tế. Vùng kinh tế độc quyền của TQ (Phi và VN) do đó phải được xác định rõ rệt theo UNCLOS. Việc này sẽ giúp VN tránh được các tàu vũ trang TQ, đột lốt “hải giám” (mà hành sử như “hải tặc”), cắt cáp các tàu nghiên cứu của VN, cho đấu thầu khai thác trên thềm lục địa của VN…. trong vùng biển EEZ của VN, vào các năm qua, ở vùng biển của VN.

Điểm hai, Phi yêu cầu tòa tuyên bố yêu sách của TQ qua bản đồ đường 9 đoạn là vô giá trị. Điểm này có nhiều sác xuất Tòa sẽ tuyên bố theo yêu cầu của Phi. Và đây cũng là điều mà VN mong muốn TQ dẹp bỏ từ bấy lâu nay mà không được.

Các điểm 3, 4, và 6 về tình trạng pháp lý các cấu tạo lúc chìm lúc nổi, hay các cấu tạo thường xuyên bị chìm, cũng rất có thể Tòa sẽ chấp thuận các yêu cầu của Phi, vì nó phù hợp với UNCLOS và tập quán quốc tế. Nếu vậy, điều này sẽ giúp ích cho VN lý lẽ để đối phó với  những ngang ngược của TQ, khi họ dành quyền chủ quyền (về kinh tế) của VN tại các bãi Tư Chính, Vũng Mây... (mà TQ gọi là Vạn An Bắc) vốn là các bãi chìm dưới nước. Việc này cũng sẽ khiến TQ từ bỏ chủ quyền tại cái gọi là « quần đảo » Trung Sa, vốn là một bãi ngầm dưới 50m mặt nước.

Điểm 7, Phi yêu cầu Tòa phán rằng TQ đã vi phạm luật pháp khi ngăn cấm các tàu của Phi khai thác các vùng biển cận Hoàng Nham và đá Gạc Ma. Điều này cũng có lợi cho VN, vì yêu sách của TQ đối với Phi không khác đối với VN ở một số bãi cạn.

Điểm 8, VN nên cân nhắc, có nên lên tiếng hay không về việc hồng lấn vùng biển thuộc các đảo TS của VN với vùng EEZ của Phi ? Cũng như ở điểm 4, có nên bảo lưu chủ quyền của VN ở các đá Châu Viên, Gạc Ma, Chữ Thập…?

Điểm 9, yêu cầu của Phi có mục tiêu nhắm đến các “luật cấm biển” của TQ và các tàu hải giám của TQ. Các tàu này đã lộng hành trong vùng biển TS, bất chấp luật lệ quốc tế đồng thời trắng trợn xâm phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của Phi (cũng như VN) tại vùng biển này. Yêu cầu này của Phi rất có thể sẽ được Tòa chấp thuận. Việc này cũng đem lại lợi ích cho VN.

4/ Thái độ của Trung Quốc:

Phản ứng việc này, phát ngôn nhân Hồng Lỗi thuộc bộ Ngoại giao Trung Quốc đáp rằng : “Phi hiện đang chiếm giữ một số đảo của Trung quốc” và “Trung quốc kiên quyết phản đối việc chiếm giữ trái phép của Phi”. Trung Quốc cũng cảnh cáo rằng Phi “chớ làm phức tạp” thêm vấn đề.

Thái độ của Trung Quốc, xét qua tuyên bố trên, có thể nước này sẽ không màng đến việc kiện cáo này. Theo ý kiến của các chuyên gia quốc tế, vụ kiện dầu vậy cũng có thể tiếp diễn, cho dầu TQ không có mặt. Quyết định của Phi đưa TQ ra Tòa quốc tế, theo nội dung các điểm khiếu kiện, cũng được các chuyên gia này đánh giá là đúng đắn. Thái độ của Trung Quốc đối với vụ kiện sẽ là thuốc thử để thế giới đánh giá về tư cách cường quốc của Trung Quốc : một nước lớn có trách nhiệm với cộng đồng thế giới hay là một nước hành sử ỷ mạnh hiếp yếu, tự cho phép đứng trên mọi luật lệ, mọi giá trị cơ bản của cộng đồng các nước văn minh trên thế giới.

Việc TQ tuyên bố “Phi hiện đang chiếm giữ một số đảo của Trung quốc” và “Trung quốc kiên quyết phản đối việc chiếm giữ trái phép của Phi”, có thể hiểu rằng có thể TQ sẽ sử dụng các phương pháp khác (không hòa bình) để lấy lại các đảo này.

lundi 21 janvier 2013

Nhật Bản tái vũ trang ?



1/ Ngân sách cho quốc phòng của Nhật đã được xác định từ năm 1976, đến hôm nay không thay đổi, là 1% PIB. Con số này dầu vậy khá quan trọng, đứng hàng thứ 6 trên thế giới, khoảng 40 tỉ Euros.

Ngân sách này phân bổ như sau : 45% chi phí nhân sự. 19% chi phí bảo trì. 18% chi phí mua khí cụ. 10% chi phí cho các căn cứ quân sự. 3% chi phí hạ tầng cơ sở. 3% Nghiên cứu.

Ngân sách thực sự cho quốc phòng là chi phí mua khí cụ và nghiên cứu, tức vào khoản 21%. Các chi phí cho nhân sự và bảo trì gia tăng hàng năm (do nhân sự về hưu và giá nhiên liệu), trong khi kinh tế Nhật trì trệ từ nhiều năm nay. Từ năm 2002 đến nay, ngân sách thực sự dành cho quốc phòng luôn sụt giảm.

Chỉ đến ngày 9-1-2013, chính phủ Nhật cho biết sẽ tăng ngân sách quốc phòng lên thêm 180 tỉ Yen (khoảng 1,6 tỉ Euros), tương ứng khoảng 0,1% tổng ngân sách. Nếu dựa vào động thái này để nói rằng Nhật « tái vũ trang » e là không đúng. Số tiền (180 tỉ Yen) chỉ dùng để hiện đại hóa 4 phi cơ F15, mua thêm các dàn ra đa PAC-3 và một số trực thăng.

Thực ra thì Nhật đã « tái vũ trang » một cách tiệm tiến từ lâu. Tất cả những động thái của Trung Quốc và Bắc Hàn, những đối thủ truyền thống và tiềm tàng, đều không thoát khỏi những cặp mắt của các chiến lược gia Nhật. Với tiềm lực và khả năng về khoa học kỹ thuật hiện nay, hải quân và không quân, các chuyên gia quốc phòng trên thế giới cho rằng Nhật có khả năng đứng đầu Châu Á.

Vấn đề khó khăn của các lãnh đạo Nhật hiện nay là sự bó buộc ở điều IX của Hiến pháp. Trong khi đó, quan niệm về chiến lược toàn cầu[i] của Hoa Kỳ đã làm cho khuynh hướng « dân tộc chủ nghĩa » của Nhật khó lòng trỗi dậy. Nhưng ngọn gió nào cũng có lúc đổi chiều. Cái gọi là « trổi dậy hòa bình » của Trung Quốc đã không làm an tâm các nhà lãnh đạo thế giới. Sự trổi dậy của Trung Quốc sẽ phải sắp xếp lại trật tự trong khu vực (và thế giới) mà việc này chắc chắn sẽ gây xáo trộn. Hoa Kỳ cần Nhật để kềm chế TQ và Nhật cần Hoa Kỳ để giữ thế « cân bằng động ». Quan niệm chiến lược sẽ đổi thay chỉ khi hai bên có chung lợi ích lâu dài.
   

2/ Nhật Bản, cũng như các nước Châu Á khác ảnh hưởng văn minh Trung Hoa, từ thế kỷ 17, đã có chủ trương « bế quan tỏa cảng » đối với các nền văn minh khác (của người da trắng phương Tây). Chủ trương này chỉ thay đổi vào năm 1853, sau khi 4 chiếc tàu « nhả khói đen » với các họng súng đầy de dọa của Mỹ, do ông Matthew Perry cầm đầu, chạy « ngược gió » tiến vào vịnh Edo tìm than đá chạy máy tàu. Sự việc này gây kinh hãi cho dân bản xứ, xưa nay chỉ quen với các chiếc tàu buồm chạy theo chiều gió. Đoàn tàu của M. Perry trở lại Nhật mùa xuân năm sau, cũng với những chiếc tàu nhả khói đen đi ngược gió, tua tủa những họng đại bác đầy đe dọa chỉa vào bờ, nhưng với lực lượng hùng mạnh hơn. Việc đến phải đến, hiệp ước Kanagawa, sau đó nhiều hiệp ước khác, Nhật phải ký với các cường quốc Tây phương. Nước Nhật phải mở cửa cho Tây phương trong hoàn cảnh như vậy, không có một chống đối nào đáng ghi nhận. Xã hội Nhật sau đó thay đổi lớn, các chế độ lãnh chúa (Shogun) lần lượt bị phế, thế vào đó là sự thành hình của một quốc gia tiên tiến (état-nation) với quan niệm một chủ tể tối cao là ngôi vị « thiên hoàng ». Về phương diện quân sự, quân đội Nhật, từ một đội quân trang bị thô sơ, được tổ chức theo phong kiến lạc hậu, đã được hiện đại hóa theo Tây phương trong một thời gian kỷ lục. (Ta cũng sẽ thấy « phép lạ » tương tự về sự phát triển thần kỳ về kinh tế của nước này sau Thế chiến II).

Có nhiều lý do để đi đến kết quả này. Điều quan trọng là người Nhật nhận thức được sự kém cõi của mình để học hỏi và tiến bộ. Quan trọng hơn là họ biết lựa chọn để học hỏi ở những cái tinh hoa nhất. Về hải quân, họ học hỏi Anh Quốc. Về lục quân, ban đầu là Pháp, sau đó là Đức. Kết quả, năm 1895, Nhật đánh thắng Thanh triều, buộc phải ký hòa ước Shimonoseki nhượng cho Nhật vĩnh viễn Đài Loan. Năm 1905, hải quân Nhật đánh thắng hạm đội Nga tại eo biển Tsushima (Đối Mã, giữa Đại Hàn và Nhật) trong khi lục quân Nhật đánh thắng quân Nga tại hải cảng Lữ Thuận và thành Thẩm Dương thuộc Liêu Ninh.

Trong một thời gian vài thập niên, về phương diện kỹ thuật, quân đội Nhật đã chứng tỏ không thua kém Tây phương.

Việc hiện đại hóa, trên tinh thần học hỏi nước ngoài những điều tinh hoa, đã đưa lực lượng quân sự của Nhật lên hàng đầu. Nhưng việc « chạy đua » về quân sự của các nước, nhứt là Nhật, đã đưa đến hội nghị về tài giảm vũ khí cho hải quân được tổ chức các năm 1921 và 1922 tại Washington. Mục tiêu nhằm giới hạn lực lượng hải quân của các nước Anh, Hoa Kỳ và Nhật. Nhưng thực ra là nhắm vào Nhật vì hải quân của Anh và Hoa Kỳ đã ở thế áp đảo ở Châu Á. Tuy nhiên, lãnh đạo Nhật đã ý thức được rằng sức mạnh của hải quân không còn là các tàu « thiết giáp » to lớn cồng kềnh, hay các tàu chiến cổ điển với vỏ sắt dày và hỏa lực hùng hậu, mà là các hàng không mẫu hạm và tiềm thủy đĩnh. Trong đó không quân sẽ nắm phần chủ đạo. Từ đó họ xác định được chiến lược quốc phòng.

Dân tộc Nhật từ giai đoạn học hỏi người, bước qua giai đoạn tương đương với người, sau đó hơn người. Hệ quả hiển nhiên của một quân đội lớn mạnh là việc bành trướng của đế quốc.


3/ Bắt đầu năm 1931 quân Nhật chiếm các lãnh thổ của Trung Quốc, sau đó khai chiến với Nga và các nước Tây phương. Thế chiến thứ II kéo dài 15 năm, đã gây vô số thiệt hại về vật chất và nhân lực cho Nhật. Thua trận, Nhật bắt buộc phải chấp nhận điều mà mọi người tưởng rằng « không thể chấp nhận » : đầu hàng vô điều kiện ! (Thực ra với một điều kiện duy nhứt là giữ lại chế độ Thiên hoàng). Điều may của Nhật là đầu hàng với Hoa Kỳ. Trong khi các nước khác, những nơi bước chân Hồng quân Liên Xô đi qua, tài nguyên, của cải tại đây đều bị cướp sạch.

Từ thời thuợng cổ, hậu quả của mọi cuộc chiến, phía chiến bại đều phải nhận lãnh nhiều điều kiện nhục nhã, của cải bị chiếm đoạt, số phận người dân trở thành nô lệ. Thời cận đại, văn minh hơn, phe chiến bại phải đền bồi chiến phí cho phe chiến thắng. Lịch sử phân liệt nước Trung Hoa trong thế kỷ 19-20 là thí dụ điển hình. Mọi tài nguyên, mọi của cải của nước này bị kẻ « chiến thắng » lột sạch. Hoặc trong thế chiến Thứ I, nước Đức thua trận, tuy không lâm vào hoàn cảnh của Thanh triều, nhưng phải cam kết trả nợ cho Anh và Pháp, phía chiến thắng, những khoảng nợ lớn lao mà dân tộc này không thể gánh. Việc này là mầm móng đưa đến Thế chiến II.

Hoa Kỳ, nước chiến thắng chủ yếu trong Thế chiến II, do ảnh hưởng tư tưởng của kinh kế gia người Anh Maynard Keynes (1883-1946), từ bỏ tập quán « thâu chiến lợi phẩm » đã có từ hàng ngàn năm nay của nhân loại. Keynes là ủy viên Anh, nhân hội nghị hòa bình 1919, đã từ chức để phản đối việc đòi tiền « bồi thường » nước Đức. Ông này đặt vấn đề : làm thế nào để tái xây dựng Châu Âu, nếu phe chiến thắng áp đặt một khoảng nợ không thể chịu đựng cho dân Đức ? Ý kiến này cho thấy đúng. Việc đòi kẻ thua trận phải « bồi thường » cho phe chiến thắng đã đưa đến việc nước Đức phát động chiến tranh để hủy nợ đồng thời cướp bóc các nước thua trận khác, đã đưa thế giới vào tình trạng bất ổn thường trực. Từ kinh nghiệm này, Hoa Kỳ chọn lựa chính sách tái xây dựng cho hai nước chiến bại là Nhật và Đức, (nhưng cũng là một đòn chính trị nhằm đối phó với địch thủ ý thức hệ là URSS, chủ trương kiểm soát mọi nguồn tài nguyên và cướp sạch của cải của nước chiến bại).

Hoa Kỳ, trước đó không lâu là kẻ thù không đội trời chung, chuyển sang thành đồng minh thân cận của Nhật. Điều làm cho mọi người kinh ngạc là thái độ cam chịu và thích ứng với hoàn cảnh của người dân Nhật.

Tháng 9-1945, lực lượng quân đội Hoa Kỳ vào chiếm đóng Nhật, dưới quyền chỉ huy của tướng Douglas MacArthur. Tokyo, cũng như các thành phố lớn khác của Nhật, đã trở thành bình địa. Quân đội Hoa Kỳ tiến vào không có một sự phản đối nào của dân chúng. Những người lính Nhật đã tuyệt đối tuân theo lệnh đầu hàng của Thiên Hoàng, đem vũ khí đến nộp mà không hề có thái độ gây hấn. Những sĩ quan thì tuẫn tiết « harakiri ». Toàn bộ nhân viên hành chánh giữ nguyên nhiệm sở. Khi một viên chức Nhật đột ngột bị thay thế bằng một người Mỹ, viên chức này tuân theo lệnh bằng một cử chỉ cực kỳ lễ phép. Những gì còn lại của hải quân Nhật được giao nạp nguyên vẹn.

Những việc này xảy ra đều ngoài dự tính của các lãnh đạo Hoa Kỳ. Thái độ của dân Nhật hoàn toàn trái ngược với những gì binh lính Hoa Kỳ đã chứng kiến trong quảng thời gian trước đó. Những chiến sĩ Nhật với tinh thần sắt đá, chiến đấu anh dũng, xem cái chết tựa lông hồng, thà chịu chết chứ không đầu hàng.


4/ Hiến pháp dân chủ năm 1946, lấy hứng từ hiến pháp của Anh, được MacArthur áp đặt cho dân Nhật. Điều IX ghi như sau :

« Dân tộc Nhật từ bỏ vĩnh viễn việc chiến tranh như là một quyền chủ quyền của quốc gia cũng như việc sử dụng vũ lực như là một phương tiện để giải quyết các tranh chấp quốc tế ».

Như thế, Nhật bị buộc từ bỏ mọi khả năng có thể gây chiến tranh, kể cả từ bỏ luôn quyền can thiệp của quốc gia, chiếu theo điều 51 của qui ước LHQ. Như vậy, từ chủ nghĩa quân phiệt hiếu chiến, dân Nhật đã chuyển hóa 180° sang một chủ nghĩa hòa bình tuyệt đối. Trong một chừng mực nào đó người ta có thể cho rằng Nhật là một « thuộc địa » của Hoa Kỳ. (Bởi vì, chỉ trong xứ bảo hộ mới không có quân đội riêng của quốc gia).

Hội nghị San Francisco 1951 được tổ chức trong khung cảnh chiến tranh Triều Tiên. Nhật Bản, cũng như Đài Loan, trở thành các « hàng không mẫu hạm » không thể chìm của Hoa Kỳ nhằm ngăn ngừa sự bành trướng của Liên Xô và Trung Quốc. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, vai trò của Nhật và Đài Loan quan trọng hẵn lên. Một hòa ước được ký kết giữa Nhật và Hoa Kỳ năm 1951. Nhật được nâng lên hàng « đồng minh » và quân đội HK chấm dứt giai đoạn chiếm đóng Nhật. Tuy vậy, một số vùng lãnh thổ của Nhật, như chuổi đảo Nam Tây (bao gồm Okinawa), vì lý do chiến lược, chỉ được Hoa Kỳ hoàn trả năm 1972. Kết ước an ninh hỗ tương giữa hai đồng minh Mỹ-Nhật ký năm 1951, có giá trị 10 năm. Tức cuối mỗi thập niên (60, 70, 80, 90, 10…) đều phải được ký lại.

Theo nội dung hòa ước, quốc phòng của Nhật hoàn toàn dựa vào Hoa Kỳ. Điều này không phải là bất tiện cho Nhật. Nước này nhờ vậy dồn hết khả năng vào việc phát tiển kinh tế và xây dựng lại đất nước đổ nát.

(Một yếu tố khác cũng giúp Nhật được nhanh chóng phục hồi nền kinh tế, nhanh hơn Tây Đức ở Châu Âu, là do cuộc chiến Triều Tiên năm 1950. Nhật trở thành một địa phương vững chắc, cần thiết cho quân đội Hoa Kỳ từ đó làm bàn đạp tiến sang giải phóng Nam Hàn).

Quân đội Hoa Kỳ đóng thường trực ở Nhật khoảng 47.000 người. Tất cả các chi phí của quân Hoa Kỳ đồn trú tại Nhật là do Nhật đài thọ, (tức là khoảng chi phí cho các căn cứ quân sự, chiếm 10% ngân sách quốc phòng).


5/ Điều IX Hiến pháp đã khiến Nhật đứng ngoài nhiều biến cố của thế giới. Thế giới đã thay đổi nhiều chiều, các lãnh đạo Nhật phải cố gắng để thích hợp trong hoàn cảnh lịch sử mới. Những vấn đề của Nhật là sự đe dọa về nguyên tử của Bắc Hàn, sự khẳng định của Trung Quốc về lãnh thổ, hải phận, chưa kể đến việc nước Nga vẫn còn chiếm một « lãnh thổ phía Bắc » của Nhật mà Nhật vẫn chưa ký hiệp ước hòa bình với nước này sau 1945… Các thế hệ lãnh đạo Nhật tiếp nối đã kế thừa di sản để lại từ thời chiến tranh, đối phó với mọi tình thế bằng « hai tay bị trói ». Áp lực trong khu vực (và trên thế giới) đòi hỏi Nhật phải sớm có một quyết định, nếu không muốn bị gạt ra bên lề lịch sử.

Trong cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhứt, Nhật đã phải chi trả một số tiền lớn, nhưng không được tham gia. Cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ hai, Nhật đã giới hạn được việc đóng góp cho chiến phí, nhưng phải tham gia nhân sự và khí cụ với hình thức cứu trợ và củng cố hậu phương. Nhiều lãnh đạo Nhật đã lên tiếng đòi hỏi Nhật phải có một tư thế xứng đáng so với những gì mà nước này đã đóng góp cho thế giới. Nhưng Nhật chỉ có thể trở thành một thành viên của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, nước này rất xứng đáng, chỉ khi nào điều IX của Hiến pháp bãi bỏ, quân đội Nhật chính thức là một quân đội quốc gia (hay hoàng gia, tùy cách gọi), có đủ các quyền chủ quyền, kể cả quyền gây chiến tranh để tự vệ và quyền can thiệp vào quốc gia khác, theo đúng như những qui định của LHQ.


6/ Quân đội của Nhật, sau Thế chiến II, bị giải giới. Năm 1950, cuộc chiến Triều Tiên bùng nổ, trong khi phe Tưởng Giới Thạch thất bại, phải bỏ lục địa chạy ra Đài Loan 1949. Các chiến lược gia của Hoa Kỳ đã tính sai về khả năng của Tưởng Giới Thạch. Họ tưởng rằng tàn quân cộng sản của Mao Trạch Đông không chóng thì chầy sẽ bị tiêu diệt. Thực tế cho thấy ngược lại, tình trạng tham nhũng và đầu óc sứ quân của Quốc Dân Đảng, đã khiến người dân ủng hộ hồng quân, kể cả dân ở Quảng Đông, vốn là cái nôi của Quốc Dân đảng. Phe « tư bản » mất lục địa cho phe « cộng sản ». Chiến lược của Hoa Kỳ vì thế phải tính toán lại từ đầu. Nhờ các việc này mà nước Nhật, từ một vùng đất bị chiếm, lần hồi trở thành một « quốc gia đồng minh » của Hoa Kỳ.

Do nhu cầu chiến tranh Triều Tiên, lực lượng quân sự của Nhật được thành hình năm 1952, với hình thức « Lực lượng trừ bị cảnh sát », gồm 75.000, nhưng không được trang bị vũ khí hạng nặng và vũ khí cộng đồng.

Cuộc chiến Triều Tiên kéo dài, một bộ phận hải quân Nhật được thành hình sau đó. « Lực lượng trừ bị Cảnh sát » được trở thành « Lục lượng bảo an Quốc gia ». Đến năm 1954, đội ngũ không quân Nhật được thành lập. Từ đó quân đội của Nhật được gọi là « Lực lượng tự vệ - FAD ».

Các sĩ quan Nhật được đào tạo tại Quốc phòng học viện tại Yokosuda. Các lễ tục hàng năm của quân độ trước kia cũng được hồi phục. Hàng năm các tướng lãnh của quân đội Nhật được vào diện kiến Thiên hoàng và những người này rất được lòng quần chúng.

Năm 1980, hải quân Nhật tham gia diễn tập với hải quân của Anh và Pháp trong khuôn khổ của OTAN. Năm 1991, thủ tướng Nhật Kaifu đã đưa một dự luật cho phép quân Nhật tham gia các chiến dịch ở nước ngoài, dưới quyền của ONU. Năm 1995, một đội quân Nhật, dưới quyền của ONU, được gởi đến cao nguyên Golan (tranh chấp giữa Do Thái và Syrie).

Năm 2010, Nhật và Hoa Kỳ ký kết lại hiệp ước an ninh hỗ tương. Nội dung khẳng định việc các đảo Senkaku, hiện có tranh chấp với Trung Quốc, nằm trong nội dung hiệp ước. Đây là một thành công của ngoại giao Nhật. HK sẽ đứng về phía Nhật nếu tranh chấp các đảo bùng nổ. Mới đây bộ Ngoại giao TQ tố cáo Hoa Kỳ bội ước với Trung Quốc trong việc tranh chấp Senkaku, sau khi bà H. Clinton, bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ khẳng định các điều đã cam kết với Nhật trong hiệp ước.

Những ngày gần đây, hải quân Nhật và hải quân Hoa Kỳ liên tục mở những cuộc tập trận chung. Hải quân Nhật cũng tiến hành các cuộc tập trận tương tự với các đồng minh khác như Đại Hàn, Úc và Phi. Như thế, quốc phòng của Nhật lần hồi thoát khỏi cảnh cô lập như sau Thế chiến II.

Mặt khác, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật, như về điện tử, đã giúp cho quân đội Nhật các loại vũ khí tinh tiến hàng đầu thế giới. Về lãnh vực hạt nhân, kỹ thuật của Nhật đã có những tiến bộ lớn, nước này có thể chế tạo vũ khí hạt nhân trong một thời gian rất ngắn, bất kỳ lúc nào. Về truyền thông, không gian… Nhật cũng cho thấy không hề thua kém bất kỳ một cường quốc nào.

Về phương diện lịch sử, từ năm 1982, các thủ tướng Nhật đã lấy lại thói quen đến trước đền Yasukuni để khấu đầu, mà trong đền này có thờ những liệt sĩ của Nhật thời Thế chiến II, bị phía Đồng minh gọi là “tội phạm chiến tranh”. Năn 1997, các sách lịch sử của Nhật bắt đầu nói về quân đội Nhật trong thời chiến tranh. Các buổi lễ chào cờ vinh danh tinh thần quốc gia cũng được thiết lập từ năm 1999 tại các lớp học. Các ứng cử viên thi vào trường sĩ quan ngày càng đông, từ tỉ lệ 4,4 ứng cử viên năm 1991 lên đến 45 ứng cử viên cho một ghế sĩ quan năm 2003.

Đầu năm 2000, một cơ quan tương tự Ngũ giác đài và cơ quan “Hội đồng an ninh quốc gia”, rập khuôn với Hoa Kỳ, đã được thành lập tại Nhật. Tất cả các động thái này nhằm đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Quân số trong quân đội Nhật là 230.000 người, năm 2008, được chia làm ba :
Lục quân, gồm 138.000 quân, được huấn luyện chiến đấu liên quân và đa vũ khí. Chủ lực gồm 800 thiết giáp và một đội trực thăng diệt thiết giáp.

Hải quân tự vệ (JMSDF) gồm 44.000 binh lính, 52 chiến hạm, 16 tàu ngầm, 5 tàu đổ bộ và 74 tài tiếp tế. Trọng tải hải quân Nhật năm 2011 là 376.000 tấn, đứng hàng thứ tư sau Hoa Kỳ, Nga và Trung Quốc. Về lực lượng không quân thuộc hải quân, gồm 80 chiến đấu cơ và 10.000 phi công và thợ máy.

Không quân tự vệ (JSGDF), theo Sách trắng quốc phòng 2010, gồm 359 phi cơ chiến đấu, với 46.000 quân, trong đó có khoảng 10.000 phi công và thợ máy. Nhật có dự án chế tạo các loại phi cơ chiến đấu tàng hình, sau khi Hoa Kỳ từ chối bán F-22 năm 2005.

Các khí cụ của Nhật thường xuyên được bảo trì và hiện đại hóa. Tất cả các khí cụ này mua từ Hoa Kỳ hay do Nhật chế tạo. Về không gian, Nhật có hợp tác với Hoa Kỳ trong một số lãnh vực. Các hệ thống phòng thủ Aegis và Patriot của Hoa Kỳ cũng được nhượng cho Nhật. Việc này củng cố hệ thống phòng thủ chiến thuật, tạo thành tấm khiên chống hỏa tiễn hữu hiệu. Lo ngại của Nhật hiện nay là phòng thủ hỏa tiễn chiến lược. Theo chiều hướng này, một dự án “hệ thống phát hiện từ xa (trong trứng nước)” để phòng thủ quốc gia đã được thành hình.


7/ Việc gia tăng ngân sách quốc phòng hàng năm của Trung Quốc đã làm cho Nhật lo ngại.

Vấn đề quốc phòng là việc liên tục và lâu dài, đòi hỏi cấp lãnh đạo phải có tầm nhìn xa và đúng, không thể để “bất ngờ”, nước đến chân mới nhảy. Mặc dầu bị bó buộc bởi điều IX Hiến pháp, nhưng ta thấy các lãnh đạo Nhật luôn tìm cách vượt qua để thành lập một đội ngũ hải, lục, không quân thiện nghệ, với những vũ khí tối tân nhứt, có thể đối phó với bất kỳ đe dọa đến từ bất kỳ một cường quốc nào vào bất kỳ lúc nào. Ngoài ra, với sự ràng buộc do hiệp ước an ninh hỗ tương với Hoa Kỳ, Nhật có thể ăn yên tâm bất kể những thách thức gần đây của Trung Quốc về tranh chấp lãnh thổ ở biển Hoa Đông.

Sự hùng hổ của Trung Quốc đối với Nhật hiện nay, các chiến lược gia Việt Nam nên suy nghĩ theo chiều hướng khác. Chuyên gia Jean-Vincent Brisset, Giám đốc trung tâm nghiên cứu IRIS Pháp, trên tờ Le Monde ngày 27-12-2012 có bài viết cho rằng Trung Quốc đang áp dụng kế sách "Faire du bruit à l'Est pour attaquer à l'Ouest" tức kế sách của Tôn Tử  “dương đông kích tây”. Những “rùm beng” của TQ hiện nay tại biển Hoa Đông chỉ nhằm mục đích đánh lạc hướng dư luận. Mục đính của họ là Biển Đông. Người viết hoàn toàn đồng ý với nhận định này.   


[i] Lý thuyết về sự « xung đột giữa các nền văn minh » do Samuel Huntington đề xướng là một quan niệm. Theo lý thuyết này, một cuộc chiến Thế giới sẽ bùng nổ (bắt nguồn từ tranh chấp ở biển Đông), đưa tới việc đối đầu giữa hai đại cường : Hoa Kỳ và Trung Quốc. Cuộc chiến lôi kéo các nước vào vòng chiến, trong đó, nước Nhật, vì bất lợi địa chính trị, và vì sự tương đồng của nền văn minh, do đó sẽ đứng vào phía Trung Quốc chống lại Hoa Kỳ.