Ngày 23 tháng giêng năm 2013,
trên trang web của của Bộ Ngoại giao Phi (DFA), có đăng văn bản giải thích, qua
hình thức câu hỏi và trả lời, các thủ tục và nguyên nhân vì sao Phi kiện Trung
Quốc trong vấn đề tranh chấp tại biển Tây Phi. Theo văn bản này, bộ Ngoại giao
Phi đã chuyển công hàm đến tòa Đại sứ Trung quốc tại Manille vào chiều ngày
22-1-2013, cho biết Phi đã nộp hồ sơ đưa Trung Quốc ra Tòa trọng tài theo Phụ
lục VII của Công ước Quốc Tế về Biển 1982. Ngoại trưởng Albert del Rosario sau
đó họp báo và giải thích, sở dĩ Phi đã phải dùng tới giải pháp này vì đã cạn
kiệt mọi giải pháp chính trị và ngoại giao nhằm giải quyết tranh chấp hòa bình
với Trung quốc tại Biển Tây Phi (WPS).
Theo công hàm gởi Tòa và Đại
sứ TQ tại Manille, hồ sơ kiện của Phi được thành lập gồm 7 phần và 43 điều. Phần
I “Giới thiệu”, từ điều 1 đến điều 8. Phần II “Bối cảnh”, từ điều 9 đến điều
30, được phân ra làm 4 tiểu đoạn A, B, C, D. Phần III “Nội dung kiện”, điều 31.
Phần IV “Thẩm quyền của Tòa trọng tài”, từ điều 32 đến điều 40. Phần V “Yêu cầu
chế tài”, điều 41. Phần VI “Chỉ định trọng tài”, điều 42. Phần VII “Quyền bảo
lưu”, điều 43.
Ngay từ dòng đầu tiên, điều 1,
Phần I “Giới thiệu”, ta có thể thấy tức khắc Phi muốn kiện Trung Quốc ở các
điều gì. Đó là: “phản đối yêu sách của Trung Quốc đối với các khu vực trên biển
Đông và vùng đáy biển cách bờ biển gần nhứt của Trung Quốc là 870 hải lý”, vì các
khu vực biển này “Trung Quốc không có quyền theo Công ước về Luật biển 1982
(UNCLOS)” đồng thời “các vùng biển này tạo nên vùng Kinh tế độc quyền (EEZ) và
thềm lục địa của Phi”.
Điều 6, cũng trong phần I, Phi
mong muốn Tòa có những phán quyết, bao gồm 3 ý nghĩa chính:
1) yêu sách của TQ dựa trên
đường 9 đoạn là không phù hợp với UNCLOS và vô giá trị;
2) xác định tình trạng pháp lý
một số cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng có yêu sách chủ quyền, theo
điều 121, chúng có phải là “đảo”, bãi cạn, bãi chìm hay không? Các cấu tạo này
có quyền được hưởng vùng biển rộng hơn 12 hải lý hay không? 3) tạo điều kiện cho Phi được
hưởng các quyền của mình.
Từ mong muốn được Tòa phán
quyết trên 3 thỉnh nguyện ở điều 6, phần III “Nội dung kiện” 3 thỉnh nguyện này
được chi tiết hóa, trở thành 10 điểm yêu cầu Tòa tuyên bố, tóm lược như sau:
1.
Các
quyền của TQ và Phi ở biển Đông phải tuân thủ theo UNCLOS.
2.
Yêu
sách đường 9 đoạn của TQ là vô giá trị.
3.
Các
cấu tạo lúc chìm lúc nổi, không nằm trong lãnh hải các quốc gia ven biển, thuộc
đáy biển, thì không thể chiếm hữu, ngoại trừ cấu tạo đó nằm trên thềm lục địa
của quốc gia theo phần VI UNCLOS.
4.
Các
bãi Vành Khăn, Mc Kennan, Xi Bi và Gaven là các cấu tạo chìm khi thủy triều
lên, không phải là đảo theo qui định của điều 121 UNCLOS, cũng không nằm trên
thềm lục địa TQ, việc TQ chiếm đóng có trái phép hay không và việc xây dựng
trên các bãi cạn này có trái phép hay không ?
5.
Bãi
Vành Khăn và McKennan thuộc thềm lục địa của Phi theo phần VI của UNCLOS.
6.
Bãi
Hoàng Ngam và các đá Châu Viên, Gạc Ma, Chữ Thập là các bãi chìm, ngoài trừ vài
mỏm đá nhô trên nước khi thủy triều lên. Chúng chỉ là « đá » theo
điều 121 khoản 3 của UNCLOS, vì thế chỉ có thể có lãnh hải không quá 12 hải lý.
TQ đã đòi hỏi một cách phi lý quyền mở rộng các vùng biển quá 12 hải lý tại các
cấu tạo này.
7.
TQ
đã vi phạm luật pháp khi ngăn cấm các tàu của Phi khai thác các vùng biển cận
Hoàng Nham và đá Gạc Ma.
8.
Phi
có quyền về lãnh hải 12 hải lý, ZEE 200 hải lý và thềm lục địa, theo các phần
II, V và VI của UNCLOS, tính theo đường cơ bản quần đảo của Phi.
9.
TQ
đã yêu sách một cách bất hợp pháp các quyền đối với tài nguyên sinh vật và phi
sinh vật và đã khai thác phi pháp các tài nguyên này và cũng đã vi phạm pháp
luật khi không cho Phi khai thác các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong
vùng EEZ và thềm lục địa của mình.
10.
TQ
đã can thiệp một cách bất hợp pháp quyền tự do hàng hải của Phi được xác định
theo UNCLOS.
Từ 10 điểm trong nội dung kiện, Phi yêu cầu Tòa phán quyết ở 13 điểm, theo
như điều 41 phần V “Yêu cầu chế tài”. Đối chiếu hai phần “Nội dung kiện” và “Yêu
cầu chế tài”, ta thấy ở điểm 5, 6, 7, 8,
9 thực ra là các điểm thứ tự 4, 5, 6, 7 trong phần “nội dung kiện”. Như thế là
từ “Nội dung” đến “Yêu cầu chế tài” không có điều gì mâu thuẩn.
Về 3 ý nghĩa chính ở điều 6, phần
I:
Ý nghĩa 1: yêu sách của TQ dựa
trên đường 9 đoạn là không phù hợp với UNCLOS và vô giá trị. Ý nghĩa này được
đặt ở thứ tự ưu tiên 2 trong phần “Nội dung”, cùng thứ tự trong phần “Yêu cầu
chế tài”.
Ý nghĩa 2: Về tình trạng pháp
lý một số cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng có yêu sách chủ quyền, theo
điều 121, chúng có phải là “đảo”, bãi cạn, bãi chìm hay không? Các cấu tạo này
có quyền được hưởng vùng biển rộng hơn 12 hải lý hay không?
Ý nghĩa này được ghi lại qua
các điểm 3, 4, 5, 6 trong phần “Nội dung kiện”, sau đó qua các điểm 4, 5, 6, 7,
8 trong phần “Yêu cầu chế tài”.
Ý nghĩa 3: tạo điều kiện cho
Phi được hưởng các quyền của mình. Ý nghĩa này được ghi ở các điểm 1, 7, 8, 10
trong phần “Nội dung kiện” và các điểm 1, 10, 12 trong phần “Yêu cầu chế tài”.
Ta thấy, toàn bộ 10 điểm trong nội dung kiện (điều 31), cũng như ở 13 điểm
khiếu nại (điều 41), Phi không nhắc lại yêu cầu đã nói ở điều 6 (điểm 2).
Đó là các cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng có yêu sách chủ
quyền. Chúng có phải là các “đảo” theo điều 121 của UNCLOS hay không ?
Các cấu tạo địa chất mà Phi và Trung Quốc cùng có yêu sách chủ quyền bao
gồm tất cả các cấu tạo địa chất được giới hạn trong vùng mà Phi đã hoạch định
Kalayan, theo đa giác được xác định bằng các tọa độ:
7° 40’ Bắc – 116° 00’ Ðông
7° 40’ Bắc – 112° 10’ Ðông
9° 00’ Bắc – 112° 10’ Ðông
12° 00’ Bắc – 118° 00’ Ðông
10° 00’ Bắc – 118° 00’ Ðông.
Trong đa giác này, ta thấy có các đảo hiện do Phi kiểm soát : Song Tử
Ðông, đảo Dừa, Thị Tứ, Bình Nguyên, Vĩnh Viễn, Loại Ta…
Việc thiếu sót này là do cố ý hay không cố ý ?
Tranh chấp ở Trường Sa phức tạp là do các điểm mờ pháp lý đến từ điều
121 định nghĩa về đảo của UNCLOS.
Theo định nghĩa : 1/ Ðảo là một dải đất tự nhiên, có nước bao bọc chung quanh
và không bị nước phủ lúc thủy triều lên. 2/ Một đảo có hải phận, vùng tiếp cận, vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa
riêng như trên đất liền, ngoại trừ điều kiện ghi dưới phần. 3/ Những bãi đá
(cồn đá) mà người ta không thể sinh sống, hoặc không có một nền kinh tế tự tại
thì không có vùng kinh tế độc quyền cũng như không có thềm lục địa.
Các đảo ở Trường Sa, một số đảo có người sinh sống, và dựa theo điều
kiện khoa học hôm nay, có thể có một nền kinh tế tự túc. Như vậy chúng có thể
được xem là đảo. Nhưng nhiều chuyên gia về Biển trên thế giới thì cho rằng các
đảo này chỉ là đảo đá.
Nguyên nhân bất đồng là vấn đề các đảo này có thể có hiệu lực về lãnh
hải, vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa hay không ? Có thì là bao nhiêu ?
Việc sơ sót này của Phi (nếu do sơ ý), đã bỏ qua một dịp tốt để Tòa
trọng tài cho ý kiến về tình trạng pháp lý của các “đảo” thuộc Trường Sa, nhằm chấm
dứt một điểm mờ pháp lý, từ lâu là nguồn cội của những tranh chấp của các nước
trong khu vực.
Việc giảng giải các điều ước của UNCLOS hoàn toàn nằm trong thẩm quyền Tòa
trọng tài.
Nếu là một sơ sót, Phi cần nhanh chóng bổ túc hồ sơ, như đã bảo lưu ở
điều 43.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.