Ý
kiến về việc kiện TQ ra một trọng tài quốc tế là không mới. Nhiều học giả trong
quá khứ đã từng đặt vấn đề. Monique Chemillier-Gendreau qua hồ sơ « La
Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys » hay Brice M. Claget
thuộc tổ hợp luật sư Covington&Burling qua tập hồ sơ « Những yêu sách
đối kháng của Việt Nam và Trung Quốc ở khu bãi ngầm Tư Chính và Thanh Long »…
là những thí dụ điển hình. Đây là những công trình nghiên cứu khoa học, có thể
đặt làm nền tảng lịch sử và pháp lý cho hồ sơ của VN. Tuy nhiên, các hồ sơ này khó
có thể áp dụng nguyên trạng, VN có thể thua kiện (hay bị thiệt hại) vì hồ sơ
pháp lý của VN có khiếm khuyết. Lý ra, hồ sơ này cần được các học giả VN nghiên
cứu sâu xa thêm để bổ túc.
Vụ
Phi đệ đơn kiện Trung Quốc đầu tuần trước đã làm nóng lại vấn đề kiện tụng.
Học
giả VN đã khen rằng « Phi đã rất khôn ngoan », cho rằng Phi đã « lách
qua một khe cửa hẹp » của Luật quốc tế về Biển.
Thực
ra thì chẳng có gì khôn ngoan trong việc này. Vì đây chỉ là một thủ thuật khá đơn
giản của giới luật gia. Một người bình thường, không phải là chuyên gia về
luật Biển, sau khi nắm được những gì mà phía Trung Quốc bảo lưu, chỉ cần nghiền
ngẫm bộ Luật quốc tế về Biển 1982 và tham khảo một số vụ án mẫu của các Tòa
quốc tế, cũng có thể thấy được kẻ hở này.
Xét
hồ sơ kiện của Phi, hồ sơ đặt căn bản trên việc diễn giải giải khác
nhau giữa các bên về một điều ước trong UNCLOS, ở đây là những vấn đề chung
quanh cách diễn giải của điều 121. Tại sao Phi không kiện TQ về vấn đề chủ
quyền và việc phân định ranh giới biển ?
Bởi
vì phía Trung Quốc, qua tuyên bố này 26-8-2006, đã bảo lưu như sau :
Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc không chấp nhận
bất kỳ thủ tục nào được qui định theo mục 2, Phần XV của Công ước đối với tất
cả các loại tranh chấp được ghi ở các khoản a), b) và c) của điều 298 của Công
ước.
Tức
là phía Trung Quốc từ khước các thủ tục giải quyết của Luật Biển, trong việc
hoạnh định ranh giới các vùng biển hay tranh chấp về vịnh hay danh nghĩa lịch
sử.
Từ sau
vụ tàu Bình Minh bị cắt cáp, ngày 24-6-2011 tác giả có viết bài « Việt
Nam cần điều chỉnh lại chiến lược biển Đông », có viết như sau :
« …
khi việc diễn giải một điều ước trong bộ Luật biển giữa hai nước có mâu thuẫn,
chiếu theo điều 286 của luật biển 1982, nếu tranh chấp không thể giải quyết
bằng thuơng thuyết, các bên liên quan có thể đưa ra một trọng tài để xét xử. …Hiệu
lực các đảo theo điều 121 có thể phân xử bằng một trọng tài quốc tế. Bởi vì,
nếu các bên tranh chấp có những cách diễn giải đối nghịch nhau về một điều ước
trong bộ Luật biển 1982, thì cơ quan có thẩm quyền giải thích các điều ước của
bộ luật này là một trọng tài quốc tế. »
Ta
thấy ý kiến của Phi đâu có mới mẻ gì, cũng đâu có « khôn ngoan » gì, (vì
người viết còn viết ra được), như học giả VN đã nói ? (Cũng thật phiền khi
nghe học giả khác kể công rằng việc Phi kiện TQ là dựa trên ý kiến của mình !)
Vấn
đề kiện tụng đặt ra đúng lúc. Tuy nhiên nhà nước VN hiện nay có chủ trương « khai
thác chung » với Trung Quốc chứ không muốn giải quyết những tranh chấp.
Ngày
11-10-2011, hai bên Việt-Trung đã ký « Thỏa thuận về những nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa », theo điều 3 và điều 4 :
3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề
trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận
và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).
Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam - Trung Quốc, hai bên giải quyết
thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các
nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.
4. Trong tiến trình tìm kiếm giải
pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau,
đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp
mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của
hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về
vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2
của Thỏa thuận này
Việc
« hợp tác cùng phát triển » là định hướng chủ đạo. Có thể vì vậy nên
không có hồ sơ nào của học giả VN lập ra để bảo vệ những quyền lợi chính đáng
của mình tại HS và TS bằng phương hướng luật pháp. Nhiều học giả Việt Nam, kể
cả một tổ chức chính trị vừa mới được thành lập, cũng chủ trương « khai
thác chung » với Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là việc khai thác chung đó được
đặt trên nguyên tắc nào ?
Đề
nghị « gác tranh chấp cùng khai thác » không phải là mới, từ thập
niên 90, đã có nhiều học giả nước ngoài đề nghị. Trong tất cả các đề nghị, không
thấy giải pháp nào là « công bằng », không gây thiệt hại cho VN.
Nguyên
tắc hợp tác giữa hai bên một mạnh một yếu là nguyên tắc của kẻ mạnh.
Trở
lại vụ kiện của Phi, trên trang web của Bộ Ngoại giao Phi, có đăng bài giải
thích vì sao Phi kiện TQ, dưới hình thức câu hỏi và câu trả lời. Trong đó có
câu hỏi như sau :
Hỏi :
tại sao chúng ta không khai thác chung với Trung Quốc ?
Trả
lời : việc khai thác chung, theo nguyên tắc của Trung Quốc đặt ra, thì trái
ngược với luật pháp của Phi. Việc khai thác chung phải phù hợp với luật pháp
của Phi.
Tức
là, việc khai thác chung, lập trường của TQ trước sau không đổi, là nguyên tắc
của Đặng Tiểu Bình : khai thác chung nhưng chủ quyền thì thuộc về Trung
Quốc. Vì nếu TQ đồng ý khai thác theo quan điểm của Phi, việc khai thác chung
đã thực hiện.
Như
vậy, việc « khai thác chung » là trái với qui định của luật lệ của VN,
giống như trường hợp của Phi.
Một
câu hỏi và trả lời khác, cũng nên nghiền ngẫm, trong văn kiện giải thích vì sao
Phi kiện TQ :
Hỏi :
tại sao dân Phi cần ủng hộ hành động này ?
Trả
lời : nếu người ngoài vào nhà của mình, cướp đi một vật của mình, thì phản
ứng của mình như thế nào ? Hành động của chúng ta là nhằm bảo vệ lãnh thổ
và vùng biển của tổ quốc mình.
Nếu cần
phải khen hành động của Phi, thì nên khen ngợi những lập luận này. Những lập
luận chính đáng này đã thúc đẩy Phi làm việc đó.
Mà ý
kiến của các câu hỏi-trả lời này, từ rất lâu, nhiều lần, tác giả cũng đã viết với
nội dung tương tự :
« Một tên cướp, vào nhà người ta đòi chia hai ngôi nhà
với chủ. Trường hợp này chủ nhà sẽ “bảo vệ” chủ quyền ngôi nhà của mình hay là
tìm phương pháp giải quyết “tranh chấp” với kẻ cướp ?
Vấn đề, lẽ ra chỉ là việc “bảo vệ chủ quyền” lại trở thành việc giải quyết “tranh chấp chủ quyền”. »
Vấn đề, lẽ ra chỉ là việc “bảo vệ chủ quyền” lại trở thành việc giải quyết “tranh chấp chủ quyền”. »
Điều
tác giả muốn nhấn mạnh trong bài này, dường như khuynh hướng muốn VN kiện Trung
Quốc tăng cao trong dư luận VN. Đây sẽ là điều tốt. Đánh một đối thủ mạnh hơn mình
nhiều lần thì cần phải đánh liên hoàn, theo lối « quần hồ » vây « mãnh
hổ ». Nhưng có nhiều điều cần suy nghĩ lại.
Thứ
nhứt, VN không nên hấp tấp kiện TQ ở Trường Sa. Hồ sơ Trường Sa tuy nóng nhưng
phải giải quyết lúc « nguội », mà nên kiện ở vấn đề Hoàng Sa, một hồ
sơ « đóng băng » vì để quá lâu. Mặt khác, chuyện Trường Sa nên để cho
Phi giải quyết. Không phải vụ kiện của Phi cũng giúp cho VN giải quyết các vấn
đề mấu chốt ở TS hay sao ?
Vấn
đề nên nghiên cứu là VN sẽ kiện về cái gì ở Hoàng Sa và kiện ở đâu ?
Vì
thiếu thông tin từ nội bộ VN, người viết loáng thoáng nghe tin hiện hai bên
Việt-Trung đang phân định vùng ngoài cửa vịnh Bắc Việt. Phía TQ đòi (?) chia
theo đường trung tuyến, tính từ đường cơ bản quần đảo Hoàng Sa với bờ biển VN.
Việt
Nam hiện nay « bí lối », không có lý lẽ nào để phản biện lại TQ về
chủ quyền của nước này tại HS. Phương pháp mà VN đã và đang làm, là tìm cách làm
giảm hiệu lực (theo điều 121, khoản 3 UNCLOS) các đảo HS để bớt thiệt hại. Đây
cũng là việc mà các « học giả » VN đã và đang nỗ lực để làm.
Nhưng
việc này cho thấy hoài công, ít ra là không có kết quả cho đến nay. Bởi vì, nếu
mình không biết Trung Quốc muốn gì, các việc làm này sẽ chỉ kéo dài thời giờ,
mà việc này càng gây khó khăn cho VN. Biết địch biết ta, địch mạnh hơn ta nhiều
lần, chưa chắc thắng. Đằng này, địch mạnh hơn ta nhiều lần mà ta hoàn toàn không
biết gì về địch. Kết quả ta chỉ có thua, mà thua cháy túi.
TQ
chiếm HS và sẽ chiếm TS vì muốn kiểm soát
toàn bộ biển Đông. Đó là « không
gian sinh tồn » của TQ. Thuơng lượng với TQ để giảm hiệu lực các đảo
HS và TS là làm việc viễn vông, mất thời giờ. Vì chủ ý của TQ là chiếm HS (và
TS) là để thực hiện một chiến lược đã thành hình từ 6, 7 thập niên nay. Người
viết đã nhiều lần cảnh báo.
Vấn
đề là, VN không thể để TQ chiếm các đảo TS. Nếu họ chiếm, điều này đồng nghĩa
với việc VN mất toàn bộ vùng biển của mình. Mặt khác, nếu không thể lấy lại HS,
thì phải giảm thiểu những đòi hỏi quá lố của TQ ở vùng của vịnh Bắc Việt (và
sau đó vùng biển các tỉnh miền trung).
Vấn
đề HS, theo tôi, VN có thể áp dụng điều 284 UNCLOS để hòa giải với TQ qua trung
gian một nước nào đó. VN có thể áp dụng các trường hợp như đã áp dụng tại vùng
Địa Trung Hải, tách rời từng phần cột nước, thềm lục địa và chủ quyền các đảo,
sau đó thuơng lượng với TQ từng vấn đề một.
Trước
mắt là phân định cột nước. Ngư dân VN cần an ninh để khai thác vùng biển HS vì
đó là ngư trường truyền thống. Nên thành lập một vùng « đánh cá chung »
ở HS, như trong vịnh Bắc Việt.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.