vendredi 21 novembre 2014

Vừa hợp tác vừa đấu tranh với Trung Quốc ở biển Đông ?

Tranh chấp Biển Đông để càng lâu càng khó. Câu « để càng lâu càng khó » này nguyên của một viên chức ngoại giao trong nước trả lời báo chí về tình trạng biên giới Việt-Trung trước đây. Khó ở đây dĩ nhiên là khó cho VN. Thời gian là kẻ thù của VN. Sự phát triển về kinh tế của TQ cho phép họ có đầy đủ phương tiện về quân sự cũng như ngoại giao, để áp đảo các nước có tranh chấp với họ ở Biển Đông, trong đó VN đứng đầu.

Khó là vì thái độ của TQ ngày càng thêm cứng rắn về các yêu sách chủ quyền ở hai quần đảo HS và TS, cũng như hải phận theo đường chín đoạn chữ U.

Thử nhìn lại vụ giàn khoan Hải dương Thạch du 981 của TQ cắm trên thềm lục địa của VN, gần đảo Tri Tôn thuộc Hoàng Sa, đầu tháng năm năm nay. Ta thấy, trên phương diện thực thi chủ quyền, tức là khả năng thi hành quyền tài phán, VN bất lực trước sự áp đảo của các lực lượng cảnh sát, kiểm ngư và hải giám của TQ. Trên phương diện ngoại giao, khi phía TQ đưa những bằng chứng củng cố chủ quyền của họ tại HS và TS trước diễn đàn LHQ, thì VN không đưa ra được các lý lẽ thuyết phục nào để bác bỏ. TQ rút giàn khoan đi, có thể do trở ngại kỹ thuật, có thể vì tốn kém, có thể do áp lực quốc tế, nhưng cũng có thể đã hoàn thành xong công tác thăm dò. Họ rút đi không hề do bất kỳ một áp lực nào từ phía VN.

Còn về các bãi đá thuộc Trường Sa mà TQ chiếm của VN từ năm 1988 như các đá Gạc Ma, đá Chữ Thập v.v... TQ đã nỗ lực từ nhiều năm nay để xây dựng các bãi đá này trở thành các đảo nhân tạo. VN bất lực, hoặc là vì không biết các việc làm của TQ trên lãnh thổ của mình, hoặc là biết nhưng không dám phản đối.  Bộ ngoại giao VN chỉ mới lên tiếng phản đối hồi đầu tháng này, vì không thể giữ im lặng được nữa, khi mà phía Phi tung những hình ảnh vệ tinh cho thấy tình trạng của các đảo.

Rõ ràng VN không có một đối sách nào hữu hiệu để đối phó với sự việc gia tăng áp lực của TQ.

Về kinh tế VN vẫn phát triển một cách èo uột, không lành mạnh. Về quân sự, VN vẫn lệ thuộc từ các nguồn nước ngoài, nhất là từ Nga. Về an ninh và phòng thủ hỗ tương, VN là nước hiếm hoi trong khu vực không ký hiệp định an ninh hỗ tương với một cường quốc. Điều này cho thấy, nếu có đụng chạm xảy ra, VN sẽ đối phó một mình.

Thời gian tới chắc chắn TQ sẽ có những bước đi chiến lược. Các đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở Trường Sa sẽ lắp đặt các giàn ra đa, các hệ thống kiểm soát không lưu. TQ sẽ tuyên bố « Vùng nhận diện phòng không » trên vùng biển phía bắc Trường Sa. Khi họ tuyên bố vùng nhận diện phòng không, TQ đã chiếm được ½ Biển Đông rồi. Biển Đông để lâu càng khó là vậy.

Vừa rồi TT Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố VN sẽ « vừa hợp tác vừa tranh đấu » với TQ trong vấn đề tranh chấp  Biển Đông. Vấn đề là VN « hợp tác » với TQ về cái gì ở biển Đông ?

Theo các tài liệu loan truyền từ trong nước thì lãnh đạo CSVN đã nhìn nhận với TQ là có ba vùng biển tranh chấp. Ba vùng biển này dĩ nhiên là các vùng biển Vịnh Bắc Việt, biển Hoàng Sa và Biển Trường Sa. Vùng vịnh Bắc Việt thì đã phân định xong. VN có khai thác chung với TQ ở một số lô dầu khí ở đây.

Hoàng Sa thì từ lâu nay TQ tuyên bố rằng nó thuộc chủ quyền bất khả tranh nghị của TQ. Yêu sách của TQ về hải phận « EEZ - kinh tế độc quyền » các đảo Hoàng Sa là xem các đảo này có hiệu lực như đất liền. Vị trí đặt giàn khoan 981 hồi tháng năm vừa rồi, ở cách đảo Tri Tôn 24 hải lý, cũng có mục đích thăm dò thái độ của VN về yêu sách hải phận của họ. Ý nghĩa của việc « vừa hợp tác vừa tranh đấu » ở vùng biển này có nghĩa là, hai bên « hợp tác » khai thác vùng biển ở khoảng giữa các đảo HS và bờ biển VN. Tức là vùng khai thác chung 100% trên thềm lục địa và hải phận kinh tế độc quyền của VN. Còn « tranh đấu » với TQ ở đây là cố gắng thuyết phục TQ không lấn quá xa về phía VN.

« Vừa hợp tác vừa đấu tranh » với TQ ở khu vực Hoàng Sa có nghĩa là VN mất nhiều hay mất ít mà thôi.

Còn vùng biển Trường Sa, đáng lẽ TQ không có lý do nào để đưa ra yêu sách ở đây. Vấn đề là lãnh đạo VN đã nhìn nhận rằng TQ và VN có tranh chấp ở khu vực này. Khi nhìn nhận đây là vùng biển là « có tranh chấp », theo tập quán quốc tế, khu vực này sẽ chia đôi, hay là cộng đồng khai thác.

« Vừa hợp tác vừa đấu tranh » với TQ ở khu vực biển Trường Sa chỉ có nghĩa là hai bên « hợp tác » khai thác trên thềm lục địa của VN, nhưng VN cố gắng « tranh đấu » để hưởng nhiều hơn TQ một chút.

Còn trong trường hợp khi TQ đã tuyên bố « vùng nhận diện phòng không » trên khu vực bắc quần đảo Trường Sa, dĩ nhiên VN không thể « hợp tác » được với TQ rồi, mà tranh đấu thế nào, thật tình là nan giải.

« Vừa hợp tác vừa tranh đấu » của TT Nguyễn Tấn Dũng sẽ khả thi, nhưng cho thấy đây là một bước lùi chiến lược, một nhượng bộ lớn lao của VN đối với các yêu sách của TQ.


Giải pháp nào ?

Giải pháp tốt nhất vẫn là đưa vấn đề tranh chấp ra trước một trọng tài quốc tế. Gần đây tôi có đề nghị một phương án pháp lý, VN đơn phương đệ đơn ra tòa Công lý quốc tế, yêu cầu Tòa giải thích về hiệu lực ở một số điều trong các công ước quốc tế nền tảng, gồm ba điểm.

Thứ nhất, yêu cầu trọng tài quốc tế tuyên bố rằng Việc chiếm hữu một lãnh thổ bằng phương pháp vũ lực là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của LHQ.

Thứ hai, Việc TQ chiếm hữu các đảo ở Trường Sa năm 1988 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.

Thứ ba, Việc chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa tháng giêng năm 1974 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.

Các điều yêu cầu Tòa tuyên bố hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Tòa Công lý Quốc tế, cũng không hề dính dáng đến những bảo lưu của TQ về việc phân giải tranh chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc tế.

Làm các việc này, thứ nhất, là ta đưa vùng biển Hoàng Sa, là vùng mà TQ nói là không có tranh chấp, trở thành vùng biển có tranh chấp. Thứ hai, sẽ ngăn chặn hành vi tuyên bố « vùng nhận diện phòng không » của TQ ở vùng bắc quần đảo Trường Sa.

Theo tôi thì việc kiên tụng này không tốn kém nhiều, cũng không có rủi ro VN bị thất kiện sẽ mất chủ quyền ở HS và TS. Theo tôi thấy, giải pháp này của tôi hiện nay vẫn là một giải pháp tốt nhất, tạo cho VN một lối thoát tránh những áp lực của TQ hiện nay.


Nhưng đó vẫn chỉ là tạm thời. Điều cần thiết là VN phải thay đổi chế độ, phải dân chủ hóa chế độ, chia sẻ những giá trị chung vơi Hoa Kỳ về dân chủ, về các quyền con người. Từ đó VN mới có thể trở thành đồng minh của HK, ký kết những kết ước an ninh hỗ tương với nước này. Việc dựa vào kẻ mạnh để tự vệ là điều mà các nước thường làm. Trong khu vực, chỉ có VN là không làm việc này. 

jeudi 20 novembre 2014

Vấn đề Kampuchia : Tranh chấp lãnh thổ.

Tranh chấp về lãnh thổ giữa hai bên VN và Kampuchia, nếu xét trên phương diện những yêu sách khác nhau của người Khmer hiện nay về lãnh thổ thì ta thấy các học giả Khmer nghiêng về lịch sử. Mà nói về lịch sử thì có thể nói là tranh chấp hai bên đã xảy ra từ rất lâu. Dầu vậy ta có thể chia ra làm năm thời kỳ. Mỗi thời kỳ bản chất của tranh chấp khác nhau, các lý lẽ biện minh cho yêu sách của các bên khác nhau. Điều này xảy ra do ảnh hưởng địa chính trị, hoàn cảnh lịch sử cũng như tinh thần dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ từ các bên.

Thời kỳ đầu, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến khi Nam kỳ trở thành thuộc địa của Pháp 1862.

Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945, sau khi Đại chiến thế giới kết thúc.  

Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954, hiệp định Genève được ký kết.

Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.

Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.

Giữa hai bên có ba loại tranh chấp. 1/ về lãnh thổ trên đất liền, có hai khuynh hướng tranh chấp, thứ nhứt là đất khu vực dọc theo biên giới, thứ hai, tranh chấp vùng đất mà người Kampuchia gọi là Khmer Krom 2/ về chủ quyền các đảo, quan trọng nhất là đảo Phú Quốc và 3/ tranh chấp về ranh giới hải phận, về hiệu lực các đảo  trong vịnh Thái Lan.

Muốn biết nội tình các tranh chấp này ra sao, lý lẽ mà các học giả Kampuchia vịn vào để đòi đất đai, lãnh thổ là như thế nào, cũng như các lý lẽ này có hợp lý hay không ? điều cần thiết là ta cần phải hiểu ngọn nguồn, tức là vừa theo lịch sử của tranh chấp, vừa theo tinh thần của luật pháp quốc tế.

1/ Thời kỳ thứ nhất, thuần túy lịch sử. Cũng cần nói sơ qua vì các yêu sách của phía Khmer hiện nay nghiêng về lịch sử.

Bắt đầu sau khi VN bình định xong Chiêm Thành khoảng đầu thế kỷ 17. Lãnh thổ VN được mở ra về phía nam cho đến Bình Thuận. Từ đó hai dân tộc VN và Khmer trực tiếp đối đầu với nhau. Vào thời điểm này thì đế quốc Khmer đã suy tàn.

Đế quốc Khmer là một đế quốc hùng mạnh, cao điểm là thế kỷ thứ 11. Theo ý kiến các học giả phương Tây thì lãnh thổ đế quốc này trải dài từ bắc Thái Lan, một phần Miến Điện, bao gồm thêm nam Lào cho đến miền Nam VN hiện nay. Đế quốc này suy tàn bắt đầu từ thế kỷ 14. Các đế quốc Xiêm lần lượt mang tên Sukhôthaï, Ayuthia và Bangkok, đã chinh phục hầu như 80% lãnh thổ đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer hùng mạnh ngày xưa đã bị đế quốc Thái tiêu diệt gần hết. Dân chúng Khmer sót lại đã chạy đi tản mát, một số trở thành các bộ lạc nhỏ trong rừng sâu, núi thẳm, số còn lại lui về lập đô ở Nam Vang. 2/3 diện tích nước Thái Lan hiện nay vốn ngày xưa thuộc về đế quốc Khmer. Các di tích lịch sử, đền đài của Khmer như Angkor Thom và Angkor Vat, hoàn toàn xóa bỏ trong ký ức của dân Khmer, bị bỏ hoang phế. Chỉ đến giữa thế kỷ thứ 19 thì các phế tích này mới được mọi người biết đến.

Công cuộc nam tiến của VN, cũng như sự bành trướng của đế quốc Thái gặp nhau. Vô hình chung đế quốc Khmer ở Nam Vang trở thành một quốc gia « trái độn » ở giữa hai thế lực mạnh mẽ là Thái và Việt. Việc dằn co hai bên Thái-Việt về Khmer kéo dài khoảng 1 thế kỷ.

Trong khoảng thời gian dằn co này, ta có thể nói rằng VN đã xây dựng và củng cố xong địa bàn của mình ở miền Nam hiện nay. Các tỉnh Biên Hòa, Mỹ Tho được xây dựng dưới thời các chúa Nguyễn, nhờ công lao các cựu trung thần nhà Minh, như Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên. Khu vực Hà Tiên và vùng chung quanh như Châu Đốc, Rạch Giá, Phú Quốc… cũng được xây dựng nhờ công lao của một người Hoa khác, thần phục VN, tên là Mạc Cửu.

Năm 1834 dưới triều Minh Mạng,  VN đã áp đặt được quyền lực của mình lên đế quốc Khmer. Nam Vang được gọi là « Trấn Tây Thành », lãnh thổ nước này được phân chia ra thành 32 tỉnh, huyện. Đến năm 1841, được sự trợ giúp của quân Xiêm, dân Khmer ở Nam Vang nổi loạn, quân VN phải rút đi. Nhưng đến năm 1845 phía Khmer lại cầu cứu VN, vì so ra ách cai trị của quân Xiêm còn bạo tàn nhiều hơn VN. Cuối cùng đế quốc Khmer phải chịu thần phục cùng lúc hai nước VN và Thái Lan. Việc này kéo dài cho đến khi đế quốc Pháp vào VN.

Trong khoảng thời gian này thì không có vấn đề gọi là « tranh chấp về biên giới hay lãnh thổ » giữa hai bên Việt và Miên, mà chỉ có hiện tượng gọi là cá lớn nuốt cá bé, xảy ra thường trực ở mọi nơi trên thế giới. Tức là, một dân tộc muốn tồn tại là phải mạnh và không thể để hiện hữu các thế lực đe dọa chung quanh. Ta thấy, ở Châu Á, trường hợp đế quốc Trung Hoa với các dân tộc chung quanh, hay tại Châu Âu, Trung Á, các nước Ả Rập... các đế quốc chinh phục lẫn nhau để mở rộng bờ cõi. Mạnh được yếu thua. Ta thấy biết bao nhiêu đế quốc mạnh mẽ như Roma, Ottoman, các đế quốc thuộc văn minh Nhị Hà (tức là Mésopotamia) thuộc Irak, Iran hiện nay... có lúc cực thịnh, nhưng rồi đều suy tàn. Cá lớn nuốt cá bé. Các việc chinh phục xảy ra thường trực mà không hề dựa trên một phép tắc hay theo một đạo lý nào. Đế quốc Khmer, đến thế kỷ 14 mạnh mẽ biết bao nhiêu. Sau đó thì suy tàn, đến đỗi con cháu họ không biết đến nền văn minh rực rỡ Angkor Vat, Angkor Thom của tổ tiên họ ra sao. Các học giả Tây phương cùng đồng ý rằng, nếu Pháp không kịp thời có mặt tại Đông dương, đế quốc Khmer chắc chắn sẽ bị mất về hai đế quốc Thái lan và VN.

Các học giả Khmer hiện nay lên án rằng VN chiếm đất của tổ tiên họ. Điều này trên quan điểm lịch sử và luật lệ quốc tế thì không thuyết phục. Cũng như VN hiện nay khó mà nại lý do Trung Hoa chiếm đất của tổ tiên mình ở Quảng Đông, Quảng Tây. Cũng như dân Ý bây giờ đâu thể nào đòi lại lãnh thổ trước kia thuộc đế quốc Roma, hay nước Thổ đòi tái dựng lại đế quốc Ottoman. Nếu ai cũng nại lý do như vậy thì thế giới sẽ đảo lộn, biển Địa Trung Hải sẽ trở thành « nội hải » của nước Ý. Nếu chỉ nói trong khu vực, tại Trung Quốc, các tỉnh Mãn Châu, Vân Nam, Tây Tạng, Quảng Đông v.v... trước kia là các quốc gia độc lập. Ai cũng lên tiếng đòi đất, đòi độc lập thì lãnh thổ của Trung quốc sẽ không còn.

Mặt khác, dân Khmer, ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, không có quan niệm quốc gia với đường ranh giới rạch ròi, như là quan niệm của văn minh Trung Hoa. Chính người Khmer, khi lục lại lịch sử của họ cũng không tìm thấy một tấm bản đồ nào cho mọi người biết là lãnh thổ của họ đã mở từ đâu đến đâu. Không biết lãnh thổ mình có từ đâu đến đâu thì đòi lại cái gì ? và ở chỗ nào ?

Quan niệm về quốc gia của dân tộc Khmer chỉ mới có sau khi tiếp xúc với văn minh Tây phương. Và chỉ sau khi tiếp xúc với Pháp, công nhận sự bảo hộ của Pháp, lãnh thổ Khmer mới lần hồi thành hình qua các đợt phân giới và cắm mốc sau này.

Những yêu sách về lãnh thổ của các học giả Khmer khi nại lịch sử là điều không phù hợp công pháp quốc tế, không ai chia sẻ. Kể cả những học giả quốc tế có cảm tình nhất với dân tộc này.  

2/ Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945 :
Sau khi triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước giao các tỉnh miền Nam cho Pháp năm 1862, thì năm 1856 vua Norodom (Nặc Ông Dương)  thỉnh cầu được sự bảo hộ của Pháp. Ngày 11 tháng 8 năm 1863 hai bên ký ký hiệp định, vương quốc Khmer, lúc đó gọi là Cambodge, được đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực đối ngoại và đối nội.
Nhưng nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói tới lãnh thổ, biên giới của vương quốc mình có từ đâu tới đâu.

Người lãnh đạo Pháp ở địa phương lúc đó là đô đốc De La Grandière, ông này quyết định phân định biên giới nhằm xác định lãnh vực thuộc quyền quản trị của Pháp. Nhưng sự mù mờ của biên giới, cộng với sự thiếu hiểu biết tình hình địa chính trị của khu vực, ông này đã làm cho phía Thái Lan hưởng lợi.

Biên giới giữa Cambodge với Thái Lan được phân định hấp tấp, Pháp đại diện Khmer ký kết hiệp ước đầu tiên với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, Xiêm từ bỏ quyền « thuợng quốc » của Xiêm đối với Khmer, nhưng Pháp phải nhượng cho Thái lãnh thổ Khmer ở hữu ngạn sông Cửu Long, tức ½ lãnh thổ Kampuchia hiện nay, gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap hiện nay.

Điều này trái ngược trên thực tế, vì trước khi Pháp vào Cambodge, vương quốc này phải chịu thần phục cả hai bên VN và Thái Lan. Lập trường ở Paris, là khi ký hiệp ước 1862 với triều đình nhà Nguyễn, nước Pháp có thẩm quyền thay thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc ở vương quốc Khmer. Kết ước giữa Pháp với vua Norodom chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không mang tính bó buộc của pháp lý. Tức là có hay không có hiệp ước này thì lãnh thổ Khmer vẫn chịu quyền thuợng quốc, tức quyền bảo hộ, của Pháp. Điều này hoàn toàn phù hợp với « luật lệ quốc tế » trong thời kỳ.

Sự sai lầm về biên giới Thái-Miên được sửa chữa lại vào năm 1893. Các tỉnh của Cambodge nhượng cho Thái trước kia được khôi phục lại.

Biên giới Việt-Miên được phân định qua hai thời kỳ : năm 1870 và năm 1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự hiện diện của quan chức Khmer, cắm được 60 mốc, nhưng sau khi phân định xong thì họ lại phản đối. Họ đòi lại vùng gọi là « mỏ vịt », và người Pháp đồng ý vạch lại biên giới, trả lại vùng này cho Cambodge. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64 mốc.

Các tài liệu của Pháp về phân định biên giới cho thấy, vừa sau khi cắm mốc xong, phía Cambodge phản đối, các cột mốc vừa cắm liền bị nhổ đi và dời về phía VN.

Năm 1887 khối Đông dương được thành lập, Cambodge trở thành một thành phần của khối này, cùng với Cochinchine (Nam Kỳ), An Nam (Trung Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ). Lào chỉ được thành lập sau này, do yêu cầu của ông August Pavie, vào năm 1893.

Đường biên giới giữa Cochichine (miền nam) và Cambodge trở thành đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông dương, thuộc thẩm quyền của quan Toàn Quyền người Pháp.

Vùng Darlac thì được sáp nhập và VN năm 1895. Điều này xảy ra do việc trao đổi đất đai : VN nhượng đất Trấn Ninh cho Lào, đồng thời Lào nhường vùng đất phía nam nước này cho Cambodge. Nhưng sau đó, năm 1899 vùng này lại trả về Lào, đến năm 1904 mới chính thức trở lại VN. Năm 1923 vùng Kontum cũng được nhập vào Darlac, đồng thời với vùng đất đỏ phía nam là Buôn Mê Thuộc.

Về lãnh thổ trên biển thì được xác định năm 1939, do nghị quyết của Toàn quyền Brévié. Đó là một đường thẳng 140°, thẳng góc so với bờ biển, theo đó các đảo phía bắc đường này thuộc Cambodge và các đảo phía nam thuộc VN, trong đó bao gồm đảo Phú Quốc.

Đến năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt-Khmer được phân định hoàn tất. Biên giới này là biên giới thuộc địa, thuộc nội bộ của nước Pháp, chứ không phải là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với quốc gia.

Các học giả Kampuchia hiện nay, một số theo chủ nghĩa « irrédentisme », tức chủ nghĩa đòi lại đất, cho rằng Pháp đã thiên vị VN lúc phân định biên giới, do đó có khuynh hướng không nhìn nhận đường biên giới này. Chủ quyền đảo Phú Quốc và các đảo chung quanh cũng bị đặt lại. Điều này không phù hợp với các luật lệ cũng như tập quán quốc tế.

Theo nguyên tắc « Uti possidetis » của công pháp quốc tế, áp dụng cho lãnh thổ các nước thuộc địa sau khi lấy lại được nền độc lập. Trong thời kỳ thuộc địa, lãnh thổ đó do bên này quản lý, thì sau khi dành được độc lập, vùng đất đó sẽ tiếp tục do bên này quản lý.

Vì vậy, hầu hết lập luận của các học giả Kampuchia hiện nay, khi lên tiếng đòi lại đất của VN, như đảo Phú Quốc, vùng lãnh thổ gọi là Khmer Krom (tức là vùng đất hiện nay thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu…), đều không thuyết phục, nếu không nói là trái ngược với luật lệ và tập quán quốc tế.

Thử tưởng tượng, ai cũng có thể đòi lại đất như vậy, thì nước Mỹ, nước Úc, Canada v.v… sẽ biến mất, vì đất đó là của người dân bản địa, chứ không phải của dân da trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ, các nước Châu Phi… sẽ không còn tồn tại. Nên biết là đường biên giới các nước Phi Châu là do hai đế quốc thực dân Anh và Pháp phân định. Để ý thì thấy là đường biên giới ở đây thường đi theo đường thẳng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến… nguyên nhân vì hai bên phân định trong văn phòng, trên bản đồ. Hậu quả của việc phân định như thế làm cho nhiều dân tộc không có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt ra, mỗi phần ở trên một quốc gia khác nhau. Và ta thấy rằng các đường biên giới đó vẫn còn giá trị pháp lý cho đến hôm nay.

Vì thế đòi hỏi của các học giả Khmer, đi ngược lại tinh thần của quốc tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh là các cuộc phân giới, mặc dầu do quan người Pháp điều khiển, nhưng các quan chức người Miên và người Việt đều có hiện diện. Vấn đề là họ không phản đối lúc phân định mà chỉ phản đối khi phân định đã hoàn tất. Sau này ta sẽ thấy, lập luận của Sihanouk về biên giới thay đổi như chong chóng, hết dựa phía này đến dựa phía bên kia.

Năm 1945 khi Nhật đến thì lập tức nhảy sang Nhật. Khi thấy thế lực Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch tháng 10 năm 1949, Sihanouk lại có khuynh hướng dựa vào Trung Cộng. Trong thời gian hội nghị Genève 1954, ông này nghĩ rằng sẽ được TQ giúp đỡ lấy lại đất, do đó đưa ra những yêu sách rất phi lý. Trong thời chiến tranh VN, Sihanouk lại thiên về phía CSVN, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến thắng sẽ trả lại đất đai. Rồi sau 1975, các phe Kampuchia, kể cả Sihanouk, cũng lại chống VN vì họ cho rằng lãnh đạo CSVN không giữ lời hứa trả lại đất, vì thế cuộc chiến 1978 bùng nổ. Từ đó cho đến nay, vấn đề biên giới, lãnh thổ, hải phận… giữa VN và Kampuchia, lúc nóng, lúc lạnh tùy thuộc vào sự tốt lành quan hệ ngoại giao giữa VN và TQ. Những lúc sau này, tranh chấp giữa VN và TQ căng thẳng vì việc TQ đặt giàn khoan 981 trong thềm lục địa của VN, ta thấy các sư sãi, các chính trị gia Kampuchia lại dấy lên các cuộc biểu tình, đòi lại đất. Những điều này ta sẽ trở lại nói rõ hơn ở phần sau.

3/ Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954 :

Trước khi nói về các diễn tiến liên quan đến biên giới giữa hai bên Việt-Miên trong thời kỳ này, cũng nên nói lại một số chi tiết liên quan đến đất đai, lãnh thổ sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng ba năm 1945.

Sihanouk đơn phương tuyên bố Cambodge độc lập. Tháng 6 năm 1945 Sihanouk đưa kiến nghị lên lãnh đạo Nhật, xin Nhật trả lại Nam Kỳ cho Cambodge, thay vì trả cho triều đinh Huế. Nên biết, lúc đó Nam Kỳ có qui chế là thuộc địa của Pháp, tương tự các lãnh thổ hải ngoại của Pháp hiện nay như Calédonie, Gyuane hay Réunion. Quan chức Nhật chưa quyết định gì thì thua trận Đại chiến trước Đồng minh.

Pháp vào lại VN, gặp nhiều sự kháng cự của kháng chiến VN, trong khi chính phủ của ông Hồ tuyên bố thành lập nước VNDCCH ngày 2-9-1945 ở miền Bắc. Do những khó khăn này, cùng với thế lực kiệt quệ do đất nước bị tàn phá do Thế chiến II, Chính phủ Pháp quyết định tổ chức các nước Đông dương để trở thành Khối liên hiệp Pháp. Ông Bảo Đại được Pháp đề nghị trả lại lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã ký giao cho Pháp trước kia. Điều kiện Bảo Đại là phải trả Nam Kỳ và nước VN là một nước thống nhất ba miền bắc, trung, nam. Pháp đồng ý nguyên tắc này và điều này được lập lại trong Hiệp định Genève 1954. Quốc gia VN được thành lập vào năm 1949, đúng với thể thức quốc tế công pháp. VN cùng với Lào và Combodge, trở thành những « quốc gia liên kết » trong khối Liên hiệp Pháp.

Phái đoàn của Cambodge được gởi qua Paris điều trần ngày 2 tháng 4 năm 1949, mục đích thuyết phục quốc hội Pháp trả lại Nam Kỳ cho Cambodge. Lý lẽ của phái đoàn Cambodge là lúc ký hiệp định bảo hộ với Pháp năm 1863, nội dung kết ước không nói đến số phận của Nam Kỳ, là vì vương quốc này nhường đất này cho Pháp sử dụng. Bây giờ Pháp không cần đến lãnh thổ này nữa, hợp lý là phải trả lại cho Cambodge chớ không thể trả cho triều đình Huế.

Lý lẽ này không thuyết phục được chính giới Pháp vì lẽ, các tỉnh Nam Kỳ là do triều đình Huế nhượng cho Pháp theo các hiệp ước 1862 và 1874. Trong khi hiệp định 1863 giữa Pháp và Miên thì không hề có một điều bảo lưu nào về lãnh thổ.

Quốc hội bác yêu sách này với đa số. Nhưng yêu sách về lãnh thổ của Cambodge thì được một số dân biểu cách tả của quốc hội Pháp ủng hộ.

Thấy đòi nguyên cả Nam Kỳ không xong, ngày 2-5-1949 Quốc hội Cambodge cho ra một kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp phân định lại biên giới. Những người này cho rằng biên giới giữa Nam Kỳ và Miên chưa bao giờ được phân định. Các cuộc phân định trước hoàn toàn mang tính cách thiên vị, gây thiệt hại cho Cambodge. Kiến nghị này cũng bị quốc hội Pháp bác bỏ.

Do căm hận Pháp đã không thỏa mãn các yêu sách của mình, Sihanouk có khuynh hướng nghiêng về Trung Cộng, là một thế lực đang lên, đứng sau chính phủ Hồ Chí Minh, đối đầu với Pháp trong vấn đề VN. Ông này nghĩ rằng TQ sẽ dùng chính phủ của ông chống lại Pháp ở mặt trận phía tây. Vì thế trong hội nghị  Genève 1954, Sihanouk công bố trước các đại cường yêu sách về lãnh thổ của Cambodge. Sihanouk đề nghị 6 giải pháp, hết sức là cường điệu, có nội dung dẫn lại sơ lược như sau :

Sihanouk đòi, hoặc trả lại cho Cambodge toàn vùng đất phía hữu ngạn sông Hậu Giang, bao gồm thêm các tỉnh Trà Vinh, đảo Phú Quốc và vùng đất giới hạn giữa kinh Tân Châu và sông Tiến Giang đồng thời tàu bè  Cambodge có quyền quá cảnh ở Sài Gòn.

Hoặc là trả lại các vùng lãnh thổ trải dài cho tới hữu ngạn sông Tiền Giang, gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc và đảo Phú Quốc, quyền được quá cảnh ở Sài Gòn đồng thời dân Khmer phai được bảo vệ.

Hoặc phải « quốc tế hóa Nam Kỳ », kinh Vĩnh Tế và hải cảng Sài Gòn có qui chế tự do, bãi miễn thuế quan. Còn không là phải đặt Nam Kỳ và đảo Phú Quốc dưới sự quản trị của LHQ.

Các đòi hỏi phi lý này không được nước nào ủng hộ. Sự bẽ bàng của Sihanouk càng lên cao trong hội nghị Genève tháng 8 năm 1954 giữa Pháp và các nước Đông dương. Yêu sách của Sihanouk dĩ nhiên không được ngó ngàng đến. Tuy vậy, kết cuộc hội nghị nhìn nhận Cambodge được quyền thông lưu trên sông Cửu Long để ra biển cũng như được quyền sử dụng thuơng cảng Sài Gòn. Nhưng các điều này bị VN bảo lưu, lý do cần xem xét lại luật lệ quốc tế để xem rằng Cambodge có chính đáng được hưởng các quyền này hay không ? Cuối cùng thì các quyền này của Cambodge bị VN bác bỏ dưới thời ông Diệm.

4/ Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.

Sau thất bại ở hội nghị Genève 1954, Sihanouk nuôi dưỡng ý định trả thù. Ông này dung dưỡng mọi thế lực chống lại chính phủ Bảo Đại, sau này là Ngô Đình Diệm.

Một số thí dụ, các lực lượng tôn giáo chống ông Diệm được Sihanouk cho phép lập sào huyệt trên đất Miên. Vì vậy để tảo thanh, quân VNCH buộc phải đi vào đất của Cambodge. Các xung đột này bắt đầu từ năm 1955. Dĩ nhiên, Sihanouk lợi dụng các việc này vừa tố cáo VN, trong khi trên thực địa thì cho người dời cột mốc phân giới sang phía VN. Để trả đũa, ông Diệm tuyên bố hủy bỏ mọi « quyền lịch sử » của Cambodge trên lãnh thổ VN.

Đến năm 1960 thì lực lượng MTGPMN được thành lập. Tổ chức này cũng xây dựng sào huyệt trên lãnh thổ Cambodge, dĩ nhiên dưới sự đồng ý ám thị của Sihanouk. Theo một số tài liệu, phía VNDCCH « nhìn nhận đường biên giới hiện trạng của Cambodge », trong khi MTGPMN, cũng như nhiều cán bộ cấp cao của CSVN, thì hứa hẹn, nếu thắng được VNCH thì sẽ trả lại đảo Phú Quốc cho Cambodge.

Vì các hứa hẹn này các đường mòn gọi là đường mòn HCM được Sihanouk đồng ý cho thiết lập. Con đường huyết mạch tiếp tế lương thực và vũ khí cho quân MTGPMN cũng như quân chính qui miền Bắc sau này. 
Quan hệ giữa Sihanouk và VNDCCH thân thiết đến mức độ vào tháng 8 năm 1963, Cambodge tuyên bố chấm dứt ngoại giao với VNCH.

Sau khi ông Diệm bị đảo chánh 1-11-1963, quan hệ hai bên VNCH và Cambodge vẫn không ấm áp trở lại, mà còn tệ hai hơn. Nguyên nhân, người Mỹ chính thức đổ quân vào VN, các cuộc hành quân, càn quét, dội bom trên đất Kampuchia nhằm phá hoại đường mòn HCM… các việc này gây ra những thiệt hại đáng tiếc cho phía thường dân Kampuchia. Tháng 7 năm 1965, Sihanouk kiện VNCH lên LHQ về việc xâm phạm lãnh thổ. LHQ có điều tra nhưng chỉ kết luận rằng VNCH có vào lãnh thổ Cambodge sau đó rút về, vì lý do bên Cambodge có dung chứa các lực lượng đối kháng, chứ VNCH không có xâm chiếm lãnh thổ của Cambodge.

Không hài lòng kết quả điều tra của LHQ, Sihanouk lên tiếng kêu gọi quốc tế ủng hộ Cambodge, nhìn nhận « đường biên giới hiện trạng » của nước này. Một số nước ủng hộ, trong đó có Pháp. Điều này có thể hiểu vì Pháp vẫn còn cay đắng Mỹ trong việc dành chỗ của Pháp tại Đông Dương, không giúp Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Năm 1966 Pháp ủng hộ Cambodge « trung lập ». Nhưng việc này không thuyết phục được ai vì tên đất Kampuchia vẫn còn nguyên các sào huyệt của MTGPMN cũng như các con đường tiếp tế gọi là đường mòn HCM.

Cuối cùng thì Sihanouk bị tướng Lon Nol lật đổ năm 1970.

Sau khi lên nắm quyền, Lon Nol yêu cầu tất cả các lực lượng của CSVN rút khỏi Kampuchia. Cũng như bất kỳ một người Cambodge nào khác, Lon Nol cũng rất bài Việt. Trong lúc cuộc đảo chánh, các cuộc thảm sát thường dân VN đã diễn ra, thây người thả đầy trên sông Cửu Long. Một số lớn người Việt phải hồi hương. Việc này càng tạo thêm gánh nặng và sự bất ổn trong xã hội miền Nam.

Lực lượng Khmer đỏ được thành lập dưới sự yễm trợ và huấn luyện của CSVN. Trên thực tế, vùng phía bắc lãnh thổ Kampuchia hoàn toàn do quân đội CSVN kiểm soát. Nhưng trong nội bộ của Khmer đỏ lại có nhánh có tinh thần bài Việt cực kỳ. Vì thế họ ly khai. Những nhóm này cũng giết chóc và khủng bố đồng thời trục xuất người Việt, như những lãnh đạo khác của Kampuchia.

Tóm lại, thời kỳ này đường biên giới, cũng như kiều dân VN sống trên đất Kampuchia, trở thành con tin bị các phía Kampuchia trao đổi quyền lợi chính trị. Trong thời chiến, vấn đề biên giới không kiểm soát được, nhưng dân chúng VN là nạn nhân trực tiếp của các tranh chấp này. Con số nạn nhân VN bị giết phải nói là rất lớn.

5/ Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.

Từ năm 1975 cho đến 1990, ta có thể nói rằng khu vực Đông dương vừa là một chiến trường, vừa là một bàn cờ địa chiến lược của các thế lực quốc tế, gồm có các nước liên hệ trong khu vực và các đại cường Trung Cộng, Liên Xô và dĩ nhiên là Mỹ. Vấn đề biên giới, Cambodge không chỉ có tranh chấp với VN mà còn có tranh chấp với Thái Lan về chủ quyền ngôi đền Préah Viheart cũng như ranh giới ngoài biển, từ sau khi lấy lại độc lập năm 1953. Trong thời gian này vấn đề biên giới giữa các bên không chính thức đặt ra, mặc dầu nó luôn là cái cớ để chiến tranh bùng nổ. Nhất là đối với hai nước Việt-Miên.

Sau khi quân Pol Pot tiến vào Nam Vang, cũng như quân miền Bắc chiếm Sài Gòn. Tháng 6 năm 1975, một phái đoàn của Khmer đỏ gởi đến Hà Nội để nhắc lại những cam kết của CSVN : « nhìn nhận đường biên giới hiện trạng của Cambodge » trong thập niên 60 về vấn đề lãnh thổ của Kampuchia. Những người này, theo dự kiến là sẽ ký kết ước với Hà Nội để bảo đảm sự « toàn vẹn lãnh thổ » của hai nước. Nhưng nhóm Khmer đỏ thân TQ trong phái đoàn bất đồng ý kiến với nhóm thân Hà Nội. Phe thân Bắc Kinh lên tiếng đòi VN trả lại cho họ vùng lãnh thổ gọi là « Khmer Krom ». Điều nên biết, chiến thắng ngày 30-4-1975 của CS miền Bắc đã làm cho lãnh đạo Bắc Kinh tức tối. Chủ trương của TQ từ xưa nay là chống lại VN thống nhất, cũng như chống lại việc VN quá thân thiện hay lệ thuộc vào Liên Xô. Phía bắc, áp lực của Liên Xô đã trầm trọng, quân Liên Xô đóng dài dài trên biên giới gây áp lực. Biển Hoa Đông thì bị Nhật, Đài Loan án ngữ. Biển Đông thì hạm đội Liên Xô đã có mặt tại Cam Ranh. Nếu Kampuchia hòa hoãn hay thân thiện với VN thì TQ sẽ không có cách gì để phá vỡ thế cô lập. Mặt khác, quyền lợi của Mỹ cũng bị đe dọa, các nước chung quanh như Thái Lan, Mã Lai v.v... sẽ sụp đổ, theo như thuyết Domino của Mỹ. Vì vậy Bắc Kinh, cũng như Mỹ, chắc chắn phải tìm cách đẩy hai bên VN và Kampuchia vào thế đối đầu.

Vì thế, cả hai đại cường, Mỹ và TQ, một tư bản, một cộng sản, do cùng mục tiêu ngăn chặn Liên Xô bành trướng, lại hợp tác với nhau, ra mặt ủng hộ Pol Pot chống lại VN. Dĩ nhiên, nguyên nhân bên ngoài là tranh chấp đất đai, nhưng bên trong là sự tranh giành ảnh hưởng địa chiến lược trong khu vực của các đại cường. Vì vậy, như đã nói, lãnh thổ trong quảng thời gian này là cái cớ để chiến tranh bùng nổ.

Để kích thích VN vào vòng chiến, trong lúc phái đoàn Khmer đỏ còn ở Hà Nội thì quân Khmer đỏ đã đánh chiếm cù lao Poulo Wai trong vịnh Thái Lan. Dọc biên giới thì quân Khmer đỏ đã sẵn sàng dàn quân ứng chiến. Như thường lệ, những người dân VN sinh sống ở Kampuchia lại trở thành nạn nhân. Trên 150.000 người bị ngược đãi, trục xuất về VN. Con số bị giết không biết là bao nhiêu, nhưng chắc chắn không nhỏ. Tháng 6 năm 1976, VN gởi sứ giả sang Nam Vang hy vọng làm dịu tình hình, nhưng phía Khmer đỏ đòi phải phân định lại biên giới, thay đổi đường biên giới theo các bản đồ của Sở địa dư Đông dương ấn hành năm 1954, trong khi phía VN thì nhìn nhận đường biên giới hiện trạng là đường biên giới thể hiện trên bộ bản đồ này. Mặt khác, hai bên cũng không đồng thuận về biên giới trên biển.

Phía Khmer đỏ gia tăng khiêu khích, từ năm 1975 đến 1978, bọn này đã tiến sang VN đánh phá và tàn sát dân chúng ở 25 huyện và 96 xã, gây ra trên 257.000 nạn nhân màn trời chiếu đất. Trong năm 1977, Pol Pot cho quân lính tiến sang Tây Ninh tàn sát dân chúng sinh sống ở đây, nhưng sự phản ứng của quân VN, do thiện chiến hơn, đã làm cho quân Khmer thiệt hại nặng. Và cũng để trả đũa những vụ tàn sát dân lành vô tội sinh sống các tỉnh dọc biên giới, tháng 12 năm 1977, VN mở một cuộc hành quân thần tốc vào tỉnh Svay Rieng khiến quân Khmer đỏ thiệt hại nặng nề. Cuối năm, Pol Pot tuyên bố chấm dứt quan hệ ngoại giao với VN.

Chiến tranh Việt-Miên bùng nổ. Dưới sự quan sát của các học giả quốc tế, cuộc chiến này là một cuộc chiến « ủy nhiệm ». Pol Pot đánh VN là đánh cho Trung quốc. Còn VN đánh là đánh cho Liên Xô.

Tháng 12 năm 1978, quân VN tiến vào Nam Vang, đánh đuổi Pol Pot và thành lập chính phủ thân VN ở đây. Cùng với chính phủ này, VN đã ký kết các hiệp định « các nguyên tắc giải quyết các vấn đề biên giới ». Trên đất liền ký năm 1982, trên biển ký năm 1983.

Trả lời phỏng vấn báo chí, Nguyễn Cơ Thạch cho rằng VN tôn trọng đường biên giới hiện trạng theo bộ bản đồ Đông dương 1/100.000. Nhưng Sihanouk, năm 1984, tố cáo trước dư luận, qua thủ tướng Thái Lan, rằng VN đã chiếm vùng « mỏ vịt », tức là tỉnh Svay Rieng.

Về biên giới trên biển, theo nội dung các văn bản tham khảo được thì hai bên cùng đồng ý "lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường phân chia các đảo trong khu vực này", hai bên đồng thuận về « vùng nước lịch sử » trong khu vực đảo Phú Quốc và "sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp… để hoạch định đường biên giới biển giữa hai nước".

Đảo Wai được VN trả lại cho Kampuchia.

Tháng 12 năm 1985 hai bên ký lại « Hiệp ước hoạch định biên giới ». Ngày 10-10-2005 ký thêm « Hiệp ước bổ sung » về biên giới. Hai bên bắt đầu cắm mốc từ năm 2006. Ta thấy tỉnh Svay Riêng, tức vùng Mỏ vịt, vẫn thuộc lãnh thổ của Kampuchia. Tức là lời tố cáo của Sihanouk là không đúng.

Điều nên biết, sau khi quân Pol Pot vào Nam Vang thành lập chính quyền thì Sihanouk được mời về làm quốc trưởng. Nhưng liền sau đó thì bị bạc đãi, tính mạng bị đe dọa. Bắc Kinh tìm cách can thiệp và đưa ông này đi Trung Quốc. Ở Bắc Kinh Sihanouk được đối đãi như là một thuợng khách. Bởi vì lãnh đạo Trung Nam Hải biết được giá trị ở con cờ Sihanouk. Ông vua này có thể làm bất cứ điều gì để chống lại VN. Cũng vì lý do này mà đất nước Kampuchia điêu linh, thần dân của ông bị nhà nước Khmer đỏ tiêu diệt gần 1/3, trong đó có họ hàng thân thích của ông. Điều trớ trêu là nhà nước này do TQ dựng lên, lúc đó ông là một thành phần của nhà nước này.

Tuy vậy, hiện nay TQ vẫn là một đồng minh được ưa chuộng tại Kampuchia. Người Việt ở đây bị kỳ thị bao nhiêu thì người Hoa được ưu đãi bấy nhiêu. Toàn thể huyết mạch kinh tế TQ hiện nay là do 10 giòng họ người Hoa nắm giữ. Liên minh Trung Hoa – Khmer hứa hẹn sẽ bền chặt lâu dài mà chất keo hàn gắn hai bên là tinh thần bài Việt. Vấn đề lãnh thổ luôn được các bên sử dụng như là một cái cớ để khích động dân chúng để chống đối VN.


6/ Yếu tố Trung Quốc.
Như đã nói ở trên, sau 1975, lãnh thổ chỉ là cái cớ để TQ kích động khiến Khmer đỏ gây hấn VN. Thì bây  giờ cũng vậy, vấn đề lãnh thổ cũng là cái cớ để TQ khích động tinh thần bài Việt trong dân chúng Kampuchia trong thời gian gần đây.

Vấn đề là biên giới trên đất liền đã được hai bên ký hiệp định và các mốc giới vừa được cắm xong. Hai bên đều thỏa mãn với yêu sách của mình, vì việc phân giới được thực hiện trên tinh thần bình đẳng, không ai ép ai. Do đó sử dụng lãnh thổ vùng biên giới để kích động đã không còn hữu hiệu. Những người Kampuchia hiện nay lên tiếng chống VN thuộc phe Sam Rainsy, một người theo dân tộc chủ nghĩa, rất thân TQ. Lá cờ đầu để những người này trương lên chống VN trước kia là các cột mốc biên giới, nay đổi lại là vùng Khmer Krom và những người dân bản địa sống ở đó.

Nhưng việc khích động người dân như thế không dễ dàng, nếu không có một cái cớ chính đáng nào đó. Điều này lại do nhà cầm quyền CSVN tạo ra. Đó là chính sách hà khắc của nhà cầm quyền này lên những người dân của họ. Điều này không làm ai ngạc nhiên, vì chính đồng bào ruột thịt của họ là dân miền Nam cũng bị phân biệt đối xử. Những người dân bản địa (mà nhiều người hiện nay gọi là người Việt gốc Miên) bị truất hữu ruộng đất, và đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân khiến người dân ở đây chống nhà cầm quyền VN.

Nếu ta xét lại những đòi hỏi của những người tổ chức biểu tình chống VN ở Nam Vang thì ta thấy nó không rõ ràng, đôi khi mâu thuẩn. Những yêu sách của họ như buộc VN phải « nhìn nhận sự thật lịch sử », hay nhìn nhận « VN chiếm đất của Kampuchia » đều có vẻ không thực tế.

Vấn đề là họ đã lầm lẫn giữa quyền sở hữu đất đai của những người dân bản địa bị nhà nước CSVN truất bỏ, với chủ quyền về lãnh thổ.

VN có chủ quyền về lãnh thổ ở các khu vực mà dân Khmer gọi là Khmer Krom, điều này đã được củng cố bởi thời gian hàng nhiều thế kỷ qua, cũng như được bảo đảm bởi luật lệ quốc tế. Ý nghĩa của từ chủ quyền ở đây là « quyền lực chủ tể » trên vùng lãnh thổ đó chứ không phải là « quyền làm chủ », hay quyền sở hữu vùng lãnh thổ đó như nhiều người đã hiểu lầm. Quyền lực chủ tể có thể ban phát quyền sở hữu về đất đai, nhưng cũng có thể truất hữu, hay bãi bỏ quyền đó. Vấn đề là nhà nước CSVN lạm dụng « quyền chủ tể » này, truất hữu hàng loạt ruộng đồng, nhà cửa, không chỉ của dân bản địa, mà của nhân dân trên khắp ba miền đất nước, gây sự bất mãn cùng cực nơi mọi tầng lớp người dân. Cán bộ CS lạm dụng quyền chức, lấy đất của người thấp cổ bé miệng giao cho những thế lực tài phiệt nhằm trục lợi. Các điều này tạo ra những bất công, làm cho sự thù hận của người dân ngun ngút đến trời cao.

Vì vậy, do nhập nhằng về khái niệm, những người dân bản địa phẫn uất đã bỏ VN sang sinh sống ở Kampuchia. Tại đây họ được các thế lực bài Việt kích động, trở lại chống VN. Điều cần nhấn mạnh : họ là người VN, sinh đẻ tại VN, tổ tiên của họ đã ở trên vùng đất đó từ lâu đời. Điều ngạc nhiên là đến bây giờ những người này vẫn bị xem là « người Việt gốc Miên ». Tức là chính sách phân biệt giai cấp của CSVN đã đổi màu để biến thành chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.

Trên đất Kampuchia, mặc dầu họ có chung nguồn gốc xa xôi, nhưng họ vẫn là người VN. Để tạo sự tin tưởng nơi người Kampuchia chính gốc, những người dân Việt ly hương này chống VN còn cực đoan hơn những người dân Kampuchia chính gốc. Đây là một hiện tượng tâm lý, dễ bị người khác lợi dụng.  

Điều đáng lo ngại là TQ có thể sử dụng lớp người bất mãn này, nuôi dưỡng họ, huấn luyện họ. Trong khi kinh tế Kampuchia lại có khuynh hướng phát triển hơn VN. Việc này càng tạo cho Kampuchia một sức hút khiến người Việt đổ xô về đây tìm cách sinh sống. Tất cả các yếu tố này đều nguy hiểm cho VN. Ta không thể bỏ qua viễn tượng, một ngày nào đó, chính những người Việt này được TQ vũ trang để trở về chống lại VN.

Lúc đó, một VN yếu, kinh tế kém phát triển, kéo theo sự yếu kém về quân sự, có thể dễ dàng bị lệ thuộc vào nước ngoài.


7/ Giải pháp nào ?

Như đã nói, vấn đề bài Việt ở những người dân bản địa VN, vấn đề đòi lại đất, là do từ chính sách hà khắc của nhà nước CSVN. Chủ trương « sở hữu tập thể về đất đai » thực ra là để tạo một nguồn kinh tài cho đảng CSVN. Ở VN hiện hữu cái gọi là « quĩ đất ». Lãnh đạo có thể sử dụng đất từ các « quĩ » này như là một nguồn tài chánh, tương tự như các mỏ dầu khí, đưa vào ngân sách quốc gia để chi phí điều hành. Việc lạm dụng đã tạo ra tại VN một tầng lớp dân oan, những người trắng tay vì đất đai bị truất hữu. Việc truất hữu phần nhiều không minh bạch, vì mục đích của nó không nhằm phục vụ cho quyền lợi của số đông mà chỉ cho một vài cá nhân, tài phiệt. Những người dân oan này phần nhiều là những người dân tộc thiểu số vùng tây bắc, trên tây nguyên, hay ở miền Nam.

Trong khi việc tạo « quĩ đất » không hề thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngược lại, tệ nạn đầu cơ về nhà đất đã tạo ra những bong bóng tài chính đe dọa sự hiện hữu cũng như các hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Nền kinh tế VN có nguy cơ sụp đổ.

Khi đã biết được nguyên nhân thì biện pháp chế ngự hệ quả không phải là việc khó khăn. Đối với những người dân bản địa ở miền Nam, để họ không bỏ nước sang Kampuchia lập tổ chức chống đối, điều nhà nước cần phải làm là cho những người đó thấy là sống ở VN sung sướng, thoải mái hơn là sống ở Kampuchia. Việc này không chỉ áp dụng cho những người dân bản địa, mà cho chung mọi người dân VN. Tức là kinh tế VN phải phát triển hơn Kampuchia. Chế độ VN nhân bản, tình người hơn chế độ Kampuchia. Tức là, chỉ còn cách duy nhất là thay đổi thế chế chính trị : dân chủ hóa chế độ. Chỉ dưới một chế độ dân chủ VN mới có thể phát triền lành mạnh.

Tiếp theo là trả lại cho người dân những gì đã là của họ. Những gì của tổ tiên họ đã tạo ra, đã là của họ, thì phải trả lại cho họ. Trả ở đây là trả quyền sở hữu đất đai chứ không phải từ bỏ « chủ quyền lãnh thổ ». Kế đến là xây dựng một chính sách « hòa giải dân tộc ». Làm thế nào cho mọi người dân thấy rằng họ được tôn trọng. Tôn trọng về nhân vị là tôn trọng văn hóa, tôn giáo, lịch sử, lề lối sinh hoạt… của người dân đó.


Sẽ không có biện pháp nào khác. Mọi đàn áp, trừng trị tù tội hôm nay sẽ không dẹp được ngọn lửa căm hờn, mà chỉ làm cho áp lực ngày càng tăng thêm. Một khi nhà nước yếu đi, vì lý do kinh tế thí dụ vậy, thì ngọn lửa này sẽ bùng cháy mãnh liệt. Nếu được sự tiếp tay của ngoại bang, thì VN sẽ không có cách nào trấn áp được. Lãnh thổ bị phân liệt là điều sẽ đến.

jeudi 13 novembre 2014

Nói về chiến tranh - « Chiến tranh bình thường » hay « chiến tranh không bình thường » ?


LTG : Viết nhân dịp có thảo luận với dịch giả Nguyễn Việt Long – người dịch cuốn « Điệp viên Z. 21 - kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ » (nguyên tác : « The Spy Who Loved Us » của Thomas A. Bass) về cách dịch thuật từ « conventional war ». Ông Long dịch thuật từ này thành « chiến tranh thông thường ».  
**********

Nói về chiến tranh, không có thí dụ nào điển hình hơn Việt Nam. Việt Nam là hai tiếng nói cụ thể khi nhắc đến « chiến tranh ». Bài viết này vì thế sẽ dựa (phần nhiều) vào các trường hợp Việt Nam để nói về « chiến tranh ».

Chiến tranh là cuộc giao tranh bằng vũ khí giữa hai quốc gia. Chiến tranh mở đầu bằng một « tuyên bố chiến tranh », thông thường dưới dạng một « tối hậu thư », và kết thúc (cũng thông thường) bằng một thỏa thuận ngừng bắn được ký kết giữa hai bên. Trường hợp có bên thắng bên bại, thỏa thuận kết thúc chiến tranh là văn bản « đầu hàng ». Trường hợp Nhật và Mỹ trong Thế chiến II, Nhật ra « Tuyên bố chiến tranh » với Mỹ cùng lúc với trận Trân Châu cảng, theo kiểu « miệng nói là tay tới ». Chiến tranh hai bên kết thúc bằng « Tuyên bố đầu hàng » của Nhật hoàng. Văn bản này được ký kết giữa đại diện Nhật hoàng và đại diện các bên thắng trận trên chiến hạm Missouri của Mỹ đậu trong Vịnh Tokyo ngày 2-9-1945.

Trường hợp hai bên bất phân thắng bại, (nhưng bên nào thấy cũng oải quá), thường ký kết văn bản gọi là « đình chiến ». Hai miền Nam, Bắc Hàn, thỏa ước gọi là « đình chiến » 1953, hai bên ngưng bắn, làn ranh vĩ tuyến 38° bắc là « giới tuyến quân sự tạm thời », phân chia vùng ảnh hưởng của hai bên. Cuộc « ngưng bắn tạm thời » này dầu vậy kéo dài cho đến hôm nay. Tức là, trên lý thuyết, hai bên vẫn còn trong « tình trạng chiến tranh ».

Cuộc chiến Việt Nam, hiệp định Genève 1954 cũng « lấy hứng » từ ký ước đình chiến Cao Ly 1953, với đường ranh quân sự tạm thời (vĩ tuyến 17).

Hiệp định Paris 1973 mục đích chấm dứt chiến tranh VN, Mỹ nhìn nhận các bên tham chiến ở VN, nhìn nhận VN là một quốc gia duy nhất, độc lập, có chủ quyền.

[Sau khi ký, sự có mặt của Mỹ ở VN trở nên « bất hợp pháp ». Vì theo nguyên tắc của Hiến chương LHQ : một quốc gia không được can thiệp vào nội bộ của một quốc gia độc lập có chủ quyền. Vì vậy Hiệp định Paris 1973 là một cái cớ, một « phương tiện » để « đồng minh tháo chạy » trong « danh dự ». Sau 1973, những gì xảy ra ở VN là chuyện « nội bộ » của VN. Trên phương diện công pháp quốc tế, không quốc gia nào có thẩm quyền để can thiệp, dĩ nhiên kể cả Mỹ. (Có người vì muốn ca tụng Lê Duẩn, cho rằng ông có trí tuệ siêu phàm, đoán trước việc Mỹ sẽ không trở lại khi miền Bắc dùng toàn lực đánh miền Nam, theo lối : « có cho kẹo Mỹ cũng không dám trở lại ». Chưa thấy ai dám bàn lại về lối nói phóng đại có tổ chức này).]

Chiến tranh (dĩ nhiên giữa hai quốc gia), ngoài dạng vũ lực, còn có thể xảy ra ở nhiều dạng khác, như « chiến tranh kinh tế », « chiến tranh tuyên truyền »… mục đích làm suy yếu đối thủ.

Trong Chiến tranh VN, Mỹ « cấm vận » VN từ 1975 (miền Bắc thì bị cấm vận từ thập niên 50), một cách nói khác của « chiến tranh kinh tế », liệt VN vào loại « quốc gia thù nghịch ». Việc cấm vận, về kinh tế, chỉ được tháo gỡ sau khi hai bên bình thường ngoại giao 1995. Về quân sự đến nay vẫn chưa tháo gỡ toàn diện.

Về « chiến tranh tuyên truyền », miền Bắc thắng lớn vì đã mở được các mặt trận tuyên truyền trên khắp thế giới, nhất là ở Sài Gòn. Dân chúng Hoa Kỳ và các nước Châu Âu chống chiến tranh VN, chống Mỹ hăng hái không kém gì dân VN « toàn dân chống Mỹ ». Người ta nói CSVN thắng trận trước hết tại Paris và Washington, sau đó tại chiến trường. Ở miền Nam, phong trào nhạc « phản chiến » phát triển mạnh. Những người « cầm viết », nhà báo than van viết không đủ sống, xuống đường « ký giả ăn mày ». Ni cô, thầy chùa, cha giòng… phản đối đàn áp tôn giáo, đồng loạt đem bàn thờ ra ngoài đường biểu tình đòi tự do tín ngưỡng. Sinh viên, học sinh cũng không kém phần mạnh bạo, biểu tình, bãi khóa triền miên (mà không biết để làm gì ?). Cùng lúc với bất an xã hội, các loại ma túy (và dĩ nhiên đĩ điếm) cũng tràn lan. « Nhất đĩ, nhì sư, tam cha, tứ tướng », là bốn « giai cấp » trong « thuợng tầng kiến trúc » của miền Nam. Thời chiến mà Miền Nam « chơi ngon », tự do hơn VN hiện nay. Không sụp đổ mới là điều ngạc nhiên.

(Cũng nên mở dấu ngoặc nói về « chiến tranh tuyên truyền » hiện nay giữa nhà cầm quyền CSVN trong nước và khối dân tị nạn. Theo tôi, những người chống cộng hải ngoại sẽ thua và tiếp tục thua te tua, nếu vẫn tiếp tục xem việc phất được lá cờ vàng như là một chiến thắng. Nhà cầm quyền VN thả ông Điếu Cày, đồng thời bấm nút mở cuộc chiến « phất cờ ». Bây giờ nói về ông Điếu cày là mọi người nhao nhao nói về « cờ vàng, cờ đỏ » chứ không còn ai nói về nhân quyền, dân chủ v.v… Ông Điếu Cày có nói về dân chủ, về nhân quyền thì ổng nói ổng nghe, cờ vàng, cờ đỏ đồng bào ta hai bên cùng phất. Phải nhìn nhận, về nghệ thuật tuyên truyền thì CSVN là bậc thầy thiên hạ).

Chiến tranh nào cũng có cái tên gọi của nó. Dưới những quan điểm về ý thức hệ, về học thuật… người ta có cái nhìn khác nhau về chiến tranh. Nhưng tuyệt nhiên không có học thuyết quốc tế, quan điểm chính trị hay triết học nào gọi tên « chiến tranh » là « chiến tranh thông thường » hay « chiến tranh không thông thường ».

Chiến tranh VN được gọi dưới nhiều tên khác nhau, tùy quan điểm chính trị, quan điểm ý thức hệ cũng như hoàn cảnh pháp lý của các bên lâm chiến.

Trên quan điểm dân tộc, phía miền Bắc gọi đó là cuộc « chiến tranh giải phóng », « đánh Mỹ cứu nước ». Trên quan điểm ý thức hệ, « đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc », miền Bắc là con cờ tiên phong của thế giới vô sản. Sau 1975, VN trở thành tên xung kích sừng sỏ của Liên Xô. Theo quan điểm của Trung Quốc, VN trở thành « Cuba của phương Đông ».

Phía miền Nam thì gọi đó là cuộc chiến bảo vệ tự do. Ngay cái mục tiêu cho thấy sự thất bại đã kết tinh từ lúc đầu. Trên phương diện « dân tộc », VN là một quốc gia duy nhất (độc lập có chủ quyền), chủ trương « bảo vệ tự do » đi ngược lại tinh thần Hiệp định Genève 1954. Trên phương diện luật lệ quốc tế, không một quốc gia nào có thể giúp bất kỳ một « quốc gia » khác vì lý do « bảo vệ tự do ». Hơn nữa miền Nam chưa phải là một « quốc gia » (hay mới chỉ là một quốc gia chưa hoàn tất – Etat partiel). Lãnh đạo miền Nam bất tài, không có viễn kiến. Sau khi lật đổ ông Diệm, họ đã để cho quân Mỹ vào VN mà không thông qua một kết ước về an ninh có hiệu lực ràng buộc. Sự ngu xuẩn lên cao độ khi ký kết Hiệp định Paris 1973 mà không có một kết ước (về an ninh hỗ tương) với Mỹ để phòng thân. Sài Gòn sụp đổ 1975 là điều phải đến, chỉ sớm hay muộn.

Phía Mỹ, vì là trụ cột của LHQ, là thành phần chủ chốt của nhiều công ước quốc tế liên quan đến chiến tranh và hòa bình, việc tham gia của Mỹ vào chiến tranh VN do đó cần phải « phù hợp » với công pháp quốc tế. Người Mỹ cố gắng xây dựng miền Nam thành một quốc gia : Nam Việt Nam (South Vietnam), để việc can dự của quân Mỹ được phù hợp với luật lệ quốc tế (trên hai phương diện jus ad bellum và jus in bello). Nhưng hành vi này trước hết đã vi phạm luật quốc tế : Hiệp định Genève xác định VN là một quốc gia duy nhất, thống nhất ba miền. Cho dầu Mỹ không ký, việc này không cấm cản được hiệp định Genève 1954 là một kết ước quốc tế, có giá trị ràng buộc. Mỹ can thiệp vào VN dưới danh nghĩa « cộng đồng tự vệ chính đáng – défense légitime collective ». Sự có mặt của quân vũ trang miền Bắc được Mỹ gọi là « gây hấn bằng vũ lực ». Cuộc chiến này được Mỹ gọi là « Chiến tranh VN ».

Trên quan điểm quốc tế, một số học giả gọi chiến tranh VN là một cuộc « chiến tranh Ý thức hệ », mang tính « quốc tế ». Phía miền Bắc được khối cộng sản yễm trợ, phía miền Nam được khối tư bản, do Hoa Kỳ đại diện chống lưng. Chiến tranh VN là thí điểm nóng của « chiến tranh lạnh ».

Cuộc chiến VN còn được quốc tế gọi dưới tên khác là « chiến tranh ủy nhiệm ». Một lãnh đạo VN có nói : « đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc ». Cũng như ông Thiệu đã từng nói đại khái : « viện trợ tới đâu giữ tới đó ». Rõ ràng là lời nói của những tên lính đánh thuê. Trong chiến tranh, miền Bắc được phe XHCN giúp từ « a đến z », thực phẩm, thuốc men, cây súng, viên đạn, xe tăng, đại pháo, hỏa tiễn… cho đến nhân sự (như chuyên gia kỹ thuật), phần lớn từ Liên Xô, Trung Quốc. Miền Nam thì súng đạn, tiền bạc của Hoa Kỳ. Cả hai phía VN chỉ cung cấp xương và máu cho cuộc chiến. 

« Chiến tranh ủy nhiệm » cũng được nhiều học giả quốc tế ám chỉ cho cuộc chiến Việt Nam – Kampuchia năm 1978. VN được sự « ủy nhiệm » của LX, còn Khmer đỏ được « ủy nhiệm » của TQ. Kết quả cuộc so găng của hai bên (LX và TQ), bên TQ thắng. Kết quả Hội nghị Thành Đô 1990, lãnh đạo VN phải đi chầu lãnh đạo TQ, chịu mọi điều kiện của họ đặt ra (về vấn đề Kampuchia cũng như về các vấn đề biên giới, lãnh thổ, chủ quyền hải đảo, khoanh vùng tranh chấp hải phận… giữa hai nước VN và TQ) là một chứng minh.

Cuộc chiến 1979 giữa VN và TQ, phía VN gọi là « cuộc chiến chống xâm lược », phía TQ gọi là « cuộc chiến phản công tự vệ ». Các học giả quốc tế gọi là « chiến tranh biên giới », vì địa bàn xảy ra ở biên giới và mục tiêu của chiến tranh cũng để giải quyết các vấn đề biên giới.

Thời phong kiến tại Châu Âu còn có chiến tranh gọi là « chiến tranh tư – la guerre privée », xảy ra do sự tranh chấp (quyền lợi và quyền lực) giữa các lãnh chúa, hay giữa thế lực thần quyền và các lãnh chúa.

Trên quan điểm triết học, « chiến tranh » được định nghĩa qua nhiều luồn tư tưởng khác nhau.

Machiavel cho rằng chiến tranh là một « phương tiện » để chinh phục và chiếm hữu quyền lực.

J.J. Rousseau trong « Le Contrat Social » cho rằng chiến tranh là « phương tiện » để đánh đổ một quốc gia (Etat – nhà nước), con người chỉ là « công cụ » : « chiến tranh không phải là quan hệ giữa người với người mà là quan hệ giữa quốc gia với quốc gia. Trong (quan hệ này) những kẻ tham gia trở thành kẻ thù một cách bất đắc dĩ. Họ tham gia không phải với tư cách là con người, cũng không phải với tư cách là nhân dân, mà với tư cách « người lính. Họ tham gia (chiến tranh) không phải vì họ là một thành phần của tổ quốc mà để bảo vệ tổ quốc. 

Một cách sống sượng hơn, Alembert (trong Essai sur les éléments de philosophie) cho rằng « nghệ thuật chiến tranh nhằm tiêu diệt con người cũng như nghệ thuật chính trị nhằm lường gạt con người ».

Clausewitz thì cho rằng chiến tranh chỉ là chính trị nối dài bằng một phương tiện khác. Theo ông này, chiến tranh không phải là một « khoa học », cũng không phải là « nghệ thuật », nó chỉ là một « lãnh vực của sự hiện hữu xã hội ». Chiến tranh (xương máu) là phương tiện nhằm giải quyết một tranh chấp (có quyền lợi lớn lao), có thể so sánh với thuơng mãi, cũng là một hình thức tranh chấp quyền lợi.

Còn quan điểm của Hegel, chiến tranh không chỉ nhằm chinh phục và chiếm hữu quyền lực mà còn là phương tiện để giữ sự đoàn kết xã hội. Trong khi quan điểm của Mác xít, qua các lý thuyết của Lenin và Mao Trạch Đông, đưa ra các khái niệm về « chiến tranh chính đáng » và « chiến tranh không chính đáng ». Theo tư tưởng này, tất cả các cuộc chiến tranh cách mạng là chiến tranh chính đáng, chiến tranh phản động là chiến tranh không chính đáng. Tư tưởng này cho rằng chiến tranh liên tục do sự bùng nổ về phát triển kinh tế và đấu tranh giai cấp. Chiến tranh chấm dứt, khi giai cấp không còn và dĩ nhiên quốc gia cũng bị xóa. Lúc đó « nền hòa bình vĩnh cữu » sẽ đến cùng nhân loại.

Trên phương diện công pháp quốc tế, người ta cố gắng áp đặt những « luật lệ về chiến tranh » cho các phe lâm chiến, như các Công ước ký tại La Haye 1899 và 1907. Do hệ quả tàn khốc của việc sử dụng các loại vũ khí hóa và sinh học trong cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất, công ước Genève 1925 được ký kết, nội dung cấm (các quốc gia thành viên công ứơc) sử dụng các loại vũ khí hơi ngạt, vi trùng hay hóa chất. Công ước Genève 1929 (và 1949) được ký kết thêm nhằm bảo vệ thuơng bệnh binh, cách đối xử với tù bình v.v…. Chiến tranh xảy ra trong khuôn khổ các công ước còn gọi là « chiến tranh qui ước – conventional war - guerre conventionnelle ».

Chiến tranh qui ước được định nghĩa như là cuộc chiến giữa hai lực lượng thù nghịch với cam kết không xâm phạm đến sinh mạng của những người không lâm chiến.  

Cuộc chiến VN không phải là « chiến tranh qui ước », ít nhất cho phía miền Bắc. Phe này sử dụng mọi phương tiện, từ chiến tranh du kích, chiến tranh tuyên truyền cho đến chiến tranh khủng bố… tất cả những gì có thể làm suy yếu định thủ là thực hiện. Vì vậy mới có câu « những gì có lợi cho cách mạng là đạo đức ». Các cuộc pháo kích bừa bãi vào trường học, gài mình xe đò, các cuộc ám sát, ném lựu đạn vào chốn đông người, hay cuộc chiến Tết Mậu thân… đều vi phạm nội dung các công ước về chiến tranh.

Không thấy ở đâu sử dụng cụm từ có ý nghĩa tương đương « chiến tranh thông thường ».

Chiến tranh thế nào là « thông thường » và thế nào là « không thông thường » ? Chiến tranh nào lại không tàn phá, không gây đổ máu, không làm tổn hao tài lực của nhân dân và đất nước ?. Chiến tranh nào lại không đáng ghê tởm ?

Có đổ máu, có tàn phá, có hao tổn… là chuyện « thông thường » hay là chuyện « không thông thường » ?

Nội hàm của chiến tranh « thông thường » (hay không thông thường) không thể xác định được. Làm thế nào để lấy một cái không xác định được nội hàm để chỉ cho một cái đã xác định được nội hàm (conventional war) ?

Người ta không thể phiên dịch ra tiếng Việt « conventional war – guerre conventionnelle » là « chiến tranh thông thường ».

Người ta dịch « conventional war – guerre conventionnelle » là « chiến tranh qui ước ».

Có thể VN chưa bao giờ làm một cuộc chiến tranh theo « qui ước ». Thật vậy, các lãnh đạo VN trong thời chiến tranh, từ ông Giáp, ông Duẩn, ông Thọ v.v… đến cuối đời cũng không dám rời một bước khỏi VN (để sang du lịch các xứ Tây phương). Bởi vì, trước luật pháp quốc tế, họ là những người vi phạm luật quốc tế về chiến tranh (như các tội đối xử tệ hại với tù nhân chiến tranh, giết chóc người vô tội – còn gọi là tội phạm chiến tranh). 

Có thể tác giả đã dịch như vậy vì ảnh hưởng quan niệm của Lenin và Mao về chiến tranh : chiến tranh chính đáng và chiến tranh không chính đáng. Từ sự « chính đáng » cho đến cái gọi là « thông thường » là rất xa. Từ lãnh vực triết học (tư tưởng Lê Nin và Mao Trạch Đông) sang đến lãnh vực công pháp quốc tế lại còn xa xôi hơn diệu vợi. 

vendredi 7 novembre 2014

Từ « thần linh pháp quyền » đến « nhà nước pháp quyền ».

1.   Pháp quyền hay pháp trị ?

Hội nghị Trung ương đảng Cộng Sản TQ kỳ tám, lần thứ tư đã được tổ chức từ ngày 20 đến ngày 23 tháng 10 năm 2014. Theo tin dẫn từ Tân hoa xã (trang tiếng Hoa), Hội nghị đã bàn luận chung quanh các mục tiêu : « ỷ pháp trị quốc », « kiến thiết trung quốc đặc sắc xã hội chủ nghĩa pháp trị », « kiến thiết xã hội chủ nghĩa pháp trị quốc gia », « hoàn thiện hiến pháp »…

Không cần biết chữ Hán ta cũng có thể hiểu mục tiêu của Hội nghị là : « dựa vào pháp luật trị nước », « xây dựng xã hội chủ nghĩa pháp trị mang màu sắc Trung quốc », « xây dựng nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa », « hoàn thiện hiến pháp »…

Tức là, chủ đề trung tâm của hội nghị này nói về những điều liên quan đến luật pháp Trung Quốc, về « nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa » cũng như về « hiến pháp ».

Tân hoa xã ở các trang tiếng Anh và tiếng Pháp cũng có tường thuật diễn tiến và nội dung hội nghị này. Trang tiếng Anh viết :

« The general target is to form a system serving "the socialist rule of law with Chinese characteristics" and build a country under "the socialist rule of law"… China will ensure the leadership of CPC in "the socialist rule of law with Chinese characteristics"… improve team building and to sharpen the CPC's leadership in pushing forward rule of law… To realize the rule of law, the country should be ruled in line with the Constitution…

Tân hoa xã tiếng Pháp cũng tường thuật với nội dung tương tự, theo đó thuật ngữ “rule of law” được dịch là “état de droit”.

Tức là, đối chiếu ngược lại, các thuật ngữ “rule of law” trong tiếng Anh hay “etat de droit” trong tiếng Pháp, chuyển sang Hán văn là “pháp trị”.

Nếu ta tra từ điển Anh-Trung hay Pháp-Trung, các thuật ngữ này được dịch là “pháp trị”.
Tuy vậy, báo chí VN, trong nước cũng như hải ngoại, đã không viết “pháp trị” mà viết là “pháp quyền”.

Một vài thí dụ:

Tờ Quân đội Nhân dân viết :

« Hội nghị đã thông qua Nghị quyết trong đó đề ra các đường hướng chỉ đạo quan trọng liên quan đến thúc đẩy pháp quyền ở Trung Quốc. Trong đó xác định rõ mục tiêu tổng thể của việc thúc đẩy pháp quyền là thiết lập một hệ thống “các quy tắc xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc” và xây dựng đất nước theo quy tắc “pháp quyền xã hội chủ nghĩa »

Theo báo này thì mục tiêu của Hội nghị là « thúc đẩy pháp quyền », thiết lập « các qui tắc xã hội chủ nghĩa đặc sắc TQ », xây dựng đất nước theo « pháp quyền xã hội chủ nghĩa ».

Không thấy báo này trích dẫn tin tức trên từ nguồn nào.

Tờ Thanh Niên thì có bài viết về chủ đề này, có tựa « Trung quốc và đường đến pháp quyền ». Bài viết có dẫn nguồn phong phú : Tân hoa xã, Hoàn cầu Thời báo, The Traits Times (Singapour), The Diplomat...

Bài báo phân tích nhiều chi tiết trong nội dung của Hội nghị. Điểm đáng chú ý, bài báo viết :

« Giới quan sát trong và ngoài Trung Quốc ghi nhận đây là lần đầu tiên một hội nghị toàn thể của Ban Chấp hành trung ương lấy pháp quyền làm chủ đề trung tâm.... “, « Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4 với nhiều giải pháp nữa nhằm tiến tới một nền pháp quyền »... « để thực hành pháp quyền, đất nước phải được lãnh đạo dựa theo Hiến pháp »...

Báo chí ở hải ngoại, BBC Việt ngữ có bài tường thuật tựa đề : « TQ cam kết tạo 'xã hội pháp quyền ». Bài báo viết :

« Hội nghị Trung ương IV vừa kết thúc ở Bắc Kinh đã ra thông cáo tập trung vào vấn đề "pháp trị" »... « Truyền thông Trung Quốc hoan nghênh việc Đảng Cộng sản trong hội nghị trung ương vào tuần này đã cam kết tạo dựng một xã hội pháp quyền. »

Rốt cục không biết là nói về « pháp trị » hay về « pháp quyền » ?

Trang RFI có hai bài viết. Một bài có dẫn nguồn Tân hoa xã (chắc là trang tiếng Anh) :

« Tân Hoa Xã loan báo, kể từ nay các viên chức Trung Quốc phải tuyên thệ tuân theo Hiến pháp. Hãng tin này công bố một văn kiện mang tên « Quyết định về các vấn đề chủ yếu liên quan đến các bước tiến của Nhà nước pháp quyền », được Hội nghị trung ương IV thông qua tuần trước. »


Vấn đề là, Hội nghị của đảng CS Trung quốc hoàn toàn không có chữ nào nói về « pháp quyền ».

Đã đành tự điển VN (và các học giả VN) dịch các thuật ngữ « rule of law – etat de droit » là « pháp quyền ». VN dịch như vậy là đúng hay sai, câu trả lời sẽ đề cập phần dưới. Điều đáng nói là báo chí VN khi viết tin tức chỉ tham khảo nguồn « thứ cấp », tức nguồn đã được người ta « xào nấu » rồi (ở đây là nguồn tiếng Anh), chứ không tham khảo nguồn nguyên thủy (tiếng Hoa). Vì nếu có tham khảo nguồn tiếng Hoa thì sẽ viết là « pháp trị » chứ không phải « pháp quyền ».

Điều này sẽ không ai phàn nàn nếu tiếng Việt không có liên hệ gì đến tiếng Hoa (như tiếng Thái, tiếng Khmer…). Một số lượng rất lớn chữ Việt bắt nguồn từ chữ Hán (từ Hán Việt). Hai từ « pháp trị » và « pháp quyền » đều là từ Hán Việt. Tức có nguồn gốc từ Trung Hoa. Nguyên tắc về dịch thuật không đòi hỏi người ta phải phiên dịch đúng nguyên bản theo lối « mot à mot », một chữ đối với một chữ, mà người ta chỉ yêu cầu dịch đúng nội dung.

Hai từ « pháp quyền » và « pháp trị » có nội dung (ý nghĩa) trong tiếng Hoa rất khác nhau.

« Pháp quyền » có ý nghĩa là quyền được xét xử trong lãnh thổ của mình (quản hạt quyền - juridiction).

« Pháp trị » dùng để chuyển ngữ và nghĩa « Rule of Law » trong tiếng Anh hay « Etat de Droit » trong tiếng Pháp. Đây là các từ ngữ thuộc về « khái niệm ». Không thể hiểu « pháp trị » theo nghĩa đen của từ ngữ (pháp = pháp luật ; trị = cai trị) mà phải hiểu là « một cách thức tổ chức nhà nước theo đó quyền lực nhà nước bị giới hạn bởi luật pháp ».

« Rule of Law » phải hiểu là « sự ưu việt (hay sự ưu đẳng) của pháp luật » (prééminent de droit – primauté de droit). “Etat de Droit” phải hiểu là “nhà nước xây dựng trên sự tôn trọng pháp luật” (État fondé sur le respect de la loi).

2.   Từ « thần linh pháp quyền »…

Theo TS Nguyễn Sĩ Dũng trong bài « Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền » :

“Năm 1919, trong Bản yêu sách được Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Vecxây, yêu sách thứ 7 là pháp quyền. Sau này, yêu sách đó được Bác thể hiện thành lời ca: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (Yêu cầu ca, Báo Nhân dân, ngày 30/1/77).”


“Cho đến nay, qua các tư­ liệu lịch sử có đ­ược, có thể nói, đây là lần đầu tiên trong văn học sử Việt Nam xuất hiện khái niệm “pháp quyền” và “pháp quyền” ở đây lại được nâng lên thành “thần linh” - một khái niệm linh thiêng, làm nổi bật ý nghĩa tính chất “pháp quyền”, nổi bật ý nghĩa, vai trò của pháp luật, của Hiến pháp trong đời sống xã hội.”

Như vậy từ ngữ « pháp quyền », theo các học giả trên, là của ông Hồ.

Bài vè lục bát tựa đề « Việt Nam yêu cầu ca », thực ra là bản “phóng tác” của bản yêu sách 7 điểm viết bằng tiếng Pháp « Revendications du peuple Annamite – Yêu sách của nhân dân An Nam » (mà các sử gia VN cho là của ông Hồ), viết năm 1919 nhân dịp Hội nghị các đại cường thắng trận Đệ Nhất thế chiến tổ chức tại Versaille. Bài vè có câu :

« Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền »

TS Nguyễn Sĩ Dũng (bài đã dẫn) nâng « pháp quyền » lên hàng « tư tưởng »:  

tư tưởng pháp quyền đã xuất hiện trong các tác phẩm của Bác Hồ. Năm 1919, trong Bản yêu sách được Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Vecxây, yêu sách thứ 7 là pháp quyền”.

TS Nguyễn Đình Lộc nâng “pháp quyền” lên thành « khái niệm ». 

Vậy thì cái « tư tưởng » (và khái niệm về) « pháp quyền » của ông Hồ là như thế nào ?

TS Nguyễn Sĩ Dũng (không biết đã tìm đâu trong tư tưởng của ông Hồ) viết ra rằng:

 “…pháp quyền là những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ”

Còn TS Nguyễn Đình Lộc chưa chứng minh « pháp quyền » là một « Khái niệm – concept ”, thì đã viết:

“Nguyễn Ái Quốc đã tìm đ­ược cách thức bình dân, gần gũi với mọi tầng lớp nhân dân, để thể hiện một cách thật đặc sắc cái cốt lõi, tinh túy của một NNPQ: đó là tinh thần thượng tôn pháp luật mà trước hết là thượng tôn Hiến pháp. Điều này chứng tỏ, ngay từ ngày đó, tinh thần pháp quyền đã trở thành điều tâm niệm, trăn trở của t­ư duy sáng tạo Hồ Chí Minh.”

Có thật vậy hay không ?

Nguyên văn yêu sách số 7, bản tiếng Pháp :

« 7/ Remplacement du régime des décrets par les régimes des lois. » (Nguồn : Les décolonisations au XXe siècle: La fin des empires européens et japonais, Par Pierre Brocheux, Annexe 1.)

Tạm dịch ra tiếng Việt là : thay thế chế độ pháp lệnh bằng chế độ luật lệ.

Bài vè phỏng lại, thành ra « Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền ».

“Xin” ở đây là “xin ai”, ai xin ? Hiến pháp này là hiến pháp nào?

Bản “yêu sách” gởi Hội nghị Versaille, nơi các cường quốc thắng trận đang hội họp. Dĩ nhiên là “xin” lãnh đạo các đại cường thắng trận, trong đó có Pháp quốc. Người xin dĩ nhiên là ông Hồ (để quí vị TS Nguyễn Sĩ dũng và TS Nguyễn Đình Lộc hài lòng).

VN lúc đó vẫn còn là “thuộc địa” của Pháp, được Pháp cai trị dưới “chế độ pháp lệnh” (của Bộ Thuộc địa và quan Toàn quyền), chứ không theo luật lệ (Hiến pháp) của mẫu quốc. Hiến pháp ở đây phải là hiến pháp của mẫu quốc.

Điều này sẽ rõ rệt nếu ta xét lại yêu sách thứ 2:

« 2/ Réforme de la justice indochinoise par l’octroi aux Indigènes des mêmes garanties judiciaires qu’aux Européens, et la suppression complète et définitive des Tribunaux d’exception qui sont des instruments de terrorisation et d’oppression contre la partie la plus honnête du peuple Annamite. »(Nguồn : Les décolonisations au XXe siècle: La fin des empires européens et japonais, Par Pierre Brocheux, Annexe 1.)

Tạm dịch : cải cách lại pháp lý Đông dương bằng cách ban bố cho người bản địa được bảo đảm về tư pháp (tài phán) như là người Châu Âu đồng thời bãi bỏ vĩnh viễn tất cả những loại Tòa án đặc biệt mà thực chất chỉ là những công cụ khủng bố và đàn áp thành phần những người An Nam lương thiện nhất.

Chữ « l’octroi » trong tiếng Pháp có nghĩa là « ban bố, ban phát ».

« Xin » để được « ban phát » : quyền được bình đẳng về tài phán như người Châu Âu.

« Bảy xin hiến pháp ban hành » ở đây có nghĩa là xin hiến pháp của mẫu quốc ban hành những điều « luật » để bảo đảm « quyền » của người « bản địa ».

VN lúc đó chưa lấy lại « độc lập – souveraineté » thì không thể nói « hiến pháp » trong câu này là « hiến pháp » của nước VN được.

Còn ý nghĩa của « thần linh pháp quyền » trong câu « trăm điều phải có thần linh pháp quyền » ?

Trước hết nói về ý nghĩa chữ « quyền ». Từ yêu sách thứ 2 ta có thể khẳng định rằng chữ quyền ở đây là quyền của « quyền lợi – right, droit » chứ không phải của « quyền lực – power, pouvoir ».

Tóm lại, ý nghĩa của « bảy xin hiến pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp quyền » :

Ông Hồ xin xỏ (mẫu quốc) cải cách nền pháp lý Đông dương, (ban bố hiến pháp), ra các điều luật để bảo đảm « quyền » của dân bản địa (như là người Châu Âu).

 « Pháp quyền » ở đây phải được hiểu là quyền của (dân bản địa) được (hiến pháp) bảo đảm bình đẳng (với dân Châu Âu) trước pháp luật.

Không ai phê bình lời yêu cầu của ông Hồ trên đây là tốt hay xấu. Điều muốn nói là TS Nguyền Đình Lộc và TS Nguyễn Sĩ Dũng, trong hai bài tiêu biểu dẫn trên, đã diễn giải không phù hợp với thực tế « khái niệm » và « tư tưởng » ông Hồ về « pháp quyền ».

TS Nguyễn Đình Lộc viết trong bài dẫn trên :

“Nguyễn Ái Quốc đòi ban hành Hiếp pháp. Hiến pháp cũng là luật, nhưng là Luật cơ bản của một nước tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho toàn bộ tổ chức và hoạt động của nhà nước, và cũng không chỉ cho nhà nước mà cho cả toàn xã hội, định hình chế định cơ bản quyền con người, quyền công dân của mỗi thành viên trong xã hội.”

Nguyên văn viết là « hiếp pháp » chứ không phải « hiến pháp », nhưng ai cũng hiểu đó là “hiến” chứ không phải “hiếp”.

Ông Hồ “đòi ban hành hiến pháp”, mà hiến pháp này là  hiến pháp của nhà nước thực dân chứ đâu phải là hiến pháp của nước Việt Nam ? Xem điều 2 bản yêu sách ta thấy rõ rệt yêu cầu “cải cách pháp lý Đông dương”, cai trị dân bản địa bằng “luật” chứ không bằng pháp lệnh.

Giả sử rằng Tây thực dân “ừ” một cái, thay đổi hiến pháp, cho phép toàn dân Đông dương được quyền “ngang hàng” với dân Tây mẫu quốc. VN (và Khmer, Lào) đã trở thành một “lãnh thổ hải ngoại” của Pháp và các dân tộc Đông dương (kể cả VN) đã có quốc tịch Pháp hết rồi !

Ông Hồ đã mất từ lâu. Nhân chứng thì mất nhưng chứng tích thì còn.

TS Nguyễn Đình Lộc khẳng định:

“Như vậy, ý tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh được thể hiện thật rõ ràng, kiên định.”

Ông Hồ không hề có ý tưởng “lập hiến” nào cả. Ông chỉ có tinh thần “Pháp Việt đề huề”, kiên định dưới ánh sáng của bản Yêu sách. Tư tưởng này thật là đậm sâu phải không ?.

3. ... Đến nhà nước pháp quyền.

3.1 Thế nào là “nhà nước pháp quyền” ?

Chữ “quyền” ở đây là lấy từ “quyền lực – pouvoir, power” hay “quyền lợi – droit, right” ? Ngoài ra chữ “quyền” còn có ý nghĩa khác về pháp lý.

TS Nguyễn Sĩ Dũng trong bài “Nguồn cội của pháp quyền” viết:

“Vấn đề cốt lõi của pháp quyền là pháp luật về quyền. Pháp luật phân định và bảo vệ các quyền: quyền của các công dân và quyền của Nhà nước, quyền của các nhánh quyền lực Nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp.”

“Quyền” theo TS Nguyễn Sĩ Dũng là “quyền lợi – droit, right”.

Trong bài dẫn trên, TS Nguyễn sĩ Dũng viết:

“Trong tiếng Pháp khái niệm Nhà nước pháp quyền còn được thể hiện rõ hơn thành "Nhà nước của quyền".”

Khoan nói đến việc “Etat de Droit” có thể dịch thành “nhà nước pháp quyền” hay không. TS Nguyễn Sĩ Dũng đã dịch chữ “droit”, trong “etat de droit”, là “quyền”. Chữ “droit” trong “Etat de Droit” không thể dịch là “quyền”.

Ông Cao Huy Thuần trong bài “Nhà nước pháp quyền” , viết “Etat de Droit” là “nhà nước pháp luật”.

Ông Cao Huy Thuần dịch như thế là dịch “mot à mot”, chứ không dịch theo ý nghĩa của khái niệm “Etat de Droit”. Dịch lối này là chỉ nói về phần “xác” chứ không diễn tả được cái “hồn” trong khái niệm. Mà phần “hồn”, tức ý nghĩa của “Etat de Droit” là gì mới là điều cần biết.

Nhưng điều này cho thấy rằng cách dịch của TS Nguyễn Sĩ Dũng là sai.

Chữ “droit” ở đây là “pháp luật” chứ không phải là “quyền”. Một thí dụ, người ta dịch “Faculté de Droit” thành “Luật khoa đại học đường”, hay “phân khoa Luật” (chứ không phải là “Quyền khoa đại học đường” hay “phân khoa Quyền”).

TS Nguyễn Sĩ Dũng cũng viết:

“Trong tiếng Anh, không có khái niệm "Nhà nước pháp quyền". Thay vào đó, các nước theo truyền thống Anh - Mỹ chỉ nói đến pháp quyền mà thôi. Hai từ "Nhà nước" thậm chí không được nhắc tới trong thuật ngữ này. Chính vì vậy, khi dịch khái niệm "Nhà nước pháp quyền" của ta sang tiếng Anh, bạn buộc lòng phải biến nó thành một thứ dài lê thê như sau: "Nhà nước bị điều chỉnh bới pháp quyền". Vấn đề cốt lõi của pháp quyền là pháp luật về quyền.”

Như thế khái niệm của TS Nguyẽn Sĩ Dũng về “nhà nước pháp quyền” hoàn toàn khác với các khái niệm “Rule of Law” hay “Etat de Droit”. Theo nghĩa nguyên thủy, các khái niệm này nói về “luật”, về sự tương quan (về cai trị) giữa nhà nước và người dân trong quốc gia như thế nào, chứ không hề nói về “quyền”.

Ý kiến của ông Cao Huy Thuần trong bài đã dẫn, đã nói về chữ “quyền” trong “pháp quyền”:

“Trong ngôn ngữ của thế giới, sau Rechtsstaat, Etat de droit, Rule of Law, Việt Nam có "Nhà nước pháp quyền". Tên gọi thật hay. Vừa "pháp", nghĩa là luật pháp; vừa "quyền", nghĩa là... quyền. Chưa biết quyền của ai, nhưng chắc chắn không phải là quyền của Nhà nước, vì Nhà nước cần gì phải đòi quyền - đòi một cái đã có.”

“Quyền nghĩa là… quyền” ! Nhưng quyền có đến (ít nhất) ba ý nghĩa khác nhau:  Quyền lợi (droit, right), quyền lực (pouvoir, power) và “quyền” của pháp luật. Quyền ở đây là “quyền” nào?

Thật tình : nghe qua thì thật là hay, nhưng rồi không biết đường đâu mà mò !

Ông Nguyễn Hưng Quốc, trong bài đăng trên VOA, viết:

Sự khác biệt giữa một chế độ dân chủ và một chế độ độc tài không phải ở những cái có mà ở những cách thức thực thi những cái có ấy. Ví dụ, liên quan đến luật pháp. Một, ở các nước dân chủ, luật pháp là tối thượng. Không có ai ở trên và/hoặc ở ngoài luật pháp. Hai, ở các nước độc tài, ngược lại, luật pháp được sử dụng như một công cụ để hợp thức hóa các hành động độc quyền và trấn áp của họ: những người hoặc nguyên cả tầng lớp lãnh đạo đều ở trên và/hoặc nằm ngoài luật pháp. Trường hợp trên được gọi là pháp quyền (rule of law); trường hợp dưới gọi là pháp trị (rule by law).

Ở đây ông Nguyễn Hưng Quốc dịch “rule of law” là pháp quyền, “rule by law là pháp trị .

Cách dịch này cũng là cách dịch “mot à mot”, chữ đối chữ, chỉ nói lên phần “xác” mà không diễn tả được phần “hồn” của khái niệm luật học “Rule of Law”.

Điều thú vị trong ba trường hợp dẫn trên là không ông nào giảng giải được ý nghĩa của chữ “Quyền” trong pháp quyền là gì ? Đồng thời ba ông không ông nào đồng ý với ông nào về cách dịch “Rule of Law”.

Điều này dễ hiểu. Các học giả VN trong nước đã lấy từ “pháp quyền” của ông Hồ chí minh sử dụng trong bản “yêu sách 7 điểm”, mục đích xin xỏ (mẫu quốc) cải cách nền pháp lý Đông dương, (ban bố hiến pháp), ra các điều luật để bảo đảm « quyền » của dân bản địa (như là người Châu Âu).

TS Nguyễn Sĩ Dũng diễn giải đúng nội dung chữ “quyền” theo tinh thần “xin xỏ” của ông Hồ trong bản yêu sách 1919. Nhưng không thể đúng với tinh thần của “Rule of Law” hay “Etat de Droit” ở các mô hình xây dựng nhà nước ở các xứ Ây, Mỹ được.

Ông Cao Huy Thuần chỉ nói “quyền là… quyền”.

Ông Nguyễn Hưng Quốc không nói “quyền” là gì mà chỉ dịch theo lối ”coup par coup”, “rule by law” thành pháp trị.

Vấn đề là nhà nước nào lại không cai trị (dân chúng) bằng pháp luật ?

Ngay từ cuốn “kinh thánh” về Luật của Anh (Rule of Law) cũng viết :

“Englishmen are ruled by the law, and by the law alone; a man may with us be punished for a breach of law, but he can be punished for nothing else. (Dicey,Introduction to the Study of the Law of the Constitution, 202)”

Tạm dịch: mọi người bị cai trị bằng pháp luật, và chỉ bằng pháp luật mà thôi. Một người có thể bị (chúng ta) trừng phạt vì hành vi vi phạm luật pháp, nhưng không thể trừng phạt hắn vì lý do bất kỳ khác.

Tức là, tự thân “Rule of Law” cũng đã hàm ý nghĩa “cai trị” bằng pháp luật rồi. Vấn đề là quan hệ giữa người cầm quyền (đại diện chức năng nhà nước) với “pháp luật” là như thế nào ?

Vì vậy muốn dịch các khái niệm “Rule of Law” hay “Etat de Droit” thế nào cho chính xác, hợp lý thì ta tìm xem những nhà làm luật các xứ đó đã hiểu các khái niệm này như thế nào ?

Thí dụ lấy từ văn bản của Nghị viện Châu âu. Ở đây sử dụng hai ngôn ngữ chính : Anh và Pháp. Nền tảng pháp luật ở đây cũng chia sẻ hai khái niệm “Rule of Law” và “Etat de Droit”.

« Rule of Law » trong tiếng Anh được đối chiếu sang tiếng Pháp là « prééminence du droit ». Nghĩa tiếng Việt là « sự ưu việt của luật pháp ». (Tuy vậy, tiếng Pháp khu vực Canada thì dịch là « primauté du droit », tức là « sự ưu đẳng của luật pháp »). Ý nghĩa của hai cách dịch như vậy là tương đương với nhau.

Nghị viện cũng nhìn nhận rằng hai khái niệm « Rule of Law » và « Etat de droit » được sử dụng trên các văn bản của các nước (trong cộng đồng) có sự tương đương với nhau.

Thuật ngữ « Etat de droit » trong tiếng Pháp, được xem là dịch từ Rechtsstaat của tiếng Đức, thì được hiểu « État fondé sur (le respect de) la loi ». Nghĩa tiếng Việt « quốc gia thiết lập trên nền tảng tôn trọng luật lệ ».

Trong bài viết trước đây tôi đã trình bày về các cách dịch các thuật ngữ trên của các bên miền Nam, miền Bắc và TQ. Bài viết ở đây.

Tại miền Nam trước 1975, thuật ngữ « pháp quyền » được dịch từ « juridiction ». Các tự điển Pháp-Hoa trong cùng thời kỳ cũng đều dịch tương tự. 

Còn « Etat de Droit » được dịch là « nhà nước pháp trị ». Trung Quốc hiện nay cũng dịch như vậy. 

Tuy nhiên, nếu xét về ý nghĩa, dĩ nhiên « Etat de droit », « Quốc gia thiết lập trên nền tảng tôn trọng luật lệ », gọi là « pháp trị » thì thiếu hẵn ý nghĩa. Nhưng chắc chắn không thể dịch là « pháp quyền ». Không hề có bóng dáng chữ « quyền » (quyền lực, quyền lợi) nào trong khái niệm này để mà dịch như vậy.

Để dễ hiểu, theo tôi, ta có thể dịch là « nhà nước trọng pháp ».

Về khái niệm « Rule of Law », tức « préeminent de droit - sự ưu việt của pháp luật ». Quốc gia xây dựng lên nền tảng này thì cũng là « quốc gia thiết lập trên nền tảng tôn trọng luật lệ ». Dịch thành « pháp quyền » như ông Nguyễn Hưng Quốc rõ là không ổn. Vì ở đây nói về luật pháp và sự cai trị mà không hề nói đền « quyền lực » hay « quyền lợi ».

Theo tôi, để dễ hiểu, cũng có thể dịch là « trọng pháp ». Nhà nước xây dựng trên nguyên tắc đó là nhà nước trọng pháp.

3.2          Vì nhu cầu hội nhập với thế giới (vào WTO), VN cần phải cải tổ hệ thống luật XHCN (luật rừng) sao cho phù hợp với luật lệ phổ cập của thế giới. Từ ngữ « pháp quyền » của ông Hồ sử dụng từ năm 1923 được Đại hội đảng VII sử dụng lại.

Vấn đề là Hội nghị này yêu cầu Quốc hội « nghiên cứu » để xây dựng « nhà nước pháp quyền ».

Từ đó, các « học giả » VN cố gắng đưa những khái niệm phổ cập của thế giới về nhà nước trọng pháp (nhà nước pháp trị) - Rule of Law của Anh, Mỹ, hay Etat de Droit của các nước Châu Âu – vào từ ngữ « pháp quyền ».

Đào sâu vào ý nghĩa thuật ngữ luật học, Etat de Droit hay Rule of Law, đều gắn liền với « souveraineté – chủ quyền, quyền lực chủ tế ». Vấn đề là « quyền chủ tể » này thuộc về ai ? (Theo Anh, Mỹ, quyền chủ tế thuộc về Quốc hội ; theo Pháp thì thuộc về toàn dân).

« Pháp quyền » là một đặc ngữ, sinh ra từ một yêu sách (của người bản địa) lên quyền lực chủ tể (mẫu quốc Pháp), xin được bình đẳng với dân Châu Âu về pháp lý.

Nhiều bài viết (như các bài đã dẫn) của các học giả VN, cố gắng xây dựng khái niệm về  “nhà nước pháp quyền”, tất cả đều không thuyết phục.

Đó là việc làm đưa hồn Trương Ba vào xác anh hàng thịt.

Sai lầm từ cái cơ bản thì không có gì tồn tại. Có hai thái độ: 1/ cãi lý đến chết, cùng lắm thì xem đó là “biệt lệ văn hóa VN”. 2/ Phải xây dựng lại từ cái cơ bản nhất.

Xem ra “biệt lệ văn hóa”, văn hóa pháp quyền cũng như văn hóa thịt chó, ai nói thì nói, xơi thì ta cứ xơi.