Tranh chấp Biển Đông để càng lâu
càng khó. Câu « để càng lâu càng khó » này nguyên của một viên chức
ngoại giao trong nước trả lời báo chí về tình trạng biên giới Việt-Trung trước
đây. Khó ở đây dĩ nhiên là khó cho VN. Thời gian là kẻ thù của VN. Sự phát
triển về kinh tế của TQ cho phép họ có đầy đủ phương tiện về quân sự cũng như
ngoại giao, để áp đảo các nước có tranh chấp với họ ở Biển Đông, trong đó VN
đứng đầu.
Khó là vì thái độ của TQ ngày càng
thêm cứng rắn về các yêu sách chủ quyền ở hai quần đảo HS và TS, cũng như hải
phận theo đường chín đoạn chữ U.
Thử nhìn lại vụ giàn khoan Hải
dương Thạch du 981 của TQ cắm trên thềm lục địa của VN, gần đảo Tri Tôn thuộc
Hoàng Sa, đầu tháng năm năm nay. Ta thấy, trên phương diện thực thi chủ quyền,
tức là khả năng thi hành quyền tài phán, VN bất lực trước sự áp đảo của các lực
lượng cảnh sát, kiểm ngư và hải giám của TQ. Trên phương diện ngoại giao, khi
phía TQ đưa những bằng chứng củng cố chủ quyền của họ tại HS và TS trước diễn
đàn LHQ, thì VN không đưa ra được các lý lẽ thuyết phục nào để bác bỏ. TQ rút
giàn khoan đi, có thể do trở ngại kỹ thuật, có thể vì tốn kém, có thể do áp lực
quốc tế, nhưng cũng có thể đã hoàn thành xong công tác thăm dò. Họ rút đi không
hề do bất kỳ một áp lực nào từ phía VN.
Còn về các bãi đá thuộc Trường Sa
mà TQ chiếm của VN từ năm 1988 như các đá Gạc Ma, đá Chữ Thập v.v... TQ đã nỗ
lực từ nhiều năm nay để xây dựng các bãi đá này trở thành các đảo nhân tạo. VN
bất lực, hoặc là vì không biết các việc làm của TQ trên lãnh thổ của mình, hoặc
là biết nhưng không dám phản đối. Bộ
ngoại giao VN chỉ mới lên tiếng phản đối hồi đầu tháng này, vì không thể giữ im
lặng được nữa, khi mà phía Phi tung những hình ảnh vệ tinh cho thấy tình trạng
của các đảo.
Rõ ràng VN không có một đối sách
nào hữu hiệu để đối phó với sự việc gia tăng áp lực của TQ.
Về kinh tế VN vẫn phát triển một
cách èo uột, không lành mạnh. Về quân sự, VN vẫn lệ thuộc từ các nguồn nước
ngoài, nhất là từ Nga. Về an ninh và phòng thủ hỗ tương, VN là nước hiếm hoi
trong khu vực không ký hiệp định an ninh hỗ tương với một cường quốc. Điều này
cho thấy, nếu có đụng chạm xảy ra, VN sẽ đối phó một mình.
Thời gian tới chắc chắn TQ sẽ có
những bước đi chiến lược. Các đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở Trường Sa sẽ lắp
đặt các giàn ra đa, các hệ thống kiểm soát không lưu. TQ sẽ tuyên bố
« Vùng nhận diện phòng không » trên vùng biển phía bắc Trường Sa. Khi
họ tuyên bố vùng nhận diện phòng không, TQ đã chiếm được ½ Biển Đông rồi. Biển
Đông để lâu càng khó là vậy.
Vừa
rồi TT Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố VN sẽ « vừa hợp tác vừa tranh đấu »
với TQ trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Vấn đề là VN « hợp tác » với TQ về cái gì ở biển Đông ?
Theo
các tài liệu loan truyền từ trong nước thì lãnh đạo CSVN đã nhìn nhận với TQ là
có ba vùng biển tranh chấp. Ba vùng biển này dĩ nhiên là các vùng biển Vịnh Bắc
Việt, biển Hoàng Sa và Biển Trường Sa. Vùng vịnh Bắc Việt thì đã phân định
xong. VN có khai thác chung với TQ ở một số lô dầu khí ở đây.
Hoàng
Sa thì từ lâu nay TQ tuyên bố rằng nó thuộc chủ quyền bất khả tranh nghị của
TQ. Yêu sách của TQ về hải phận « EEZ - kinh tế độc quyền » các đảo
Hoàng Sa là xem các đảo này có hiệu lực như đất liền. Vị trí đặt giàn khoan 981
hồi tháng năm vừa rồi, ở cách đảo Tri Tôn 24 hải lý, cũng có mục đích thăm dò
thái độ của VN về yêu sách hải phận của họ. Ý nghĩa của việc « vừa hợp tác
vừa tranh đấu » ở vùng biển này có nghĩa là, hai bên « hợp tác »
khai thác vùng biển ở khoảng giữa các đảo HS và bờ biển VN. Tức là vùng khai
thác chung 100% trên thềm lục địa và hải phận kinh tế độc quyền của VN. Còn
« tranh đấu » với TQ ở đây là cố gắng thuyết phục TQ không lấn quá xa
về phía VN.
« Vừa
hợp tác vừa đấu tranh » với TQ ở khu vực Hoàng Sa có nghĩa là VN mất nhiều
hay mất ít mà thôi.
Còn
vùng biển Trường Sa, đáng lẽ TQ không có lý do nào để đưa ra yêu sách ở đây.
Vấn đề là lãnh đạo VN đã nhìn nhận rằng TQ và VN có tranh chấp ở khu vực này. Khi
nhìn nhận đây là vùng biển là « có tranh chấp », theo tập quán quốc
tế, khu vực này sẽ chia đôi, hay là cộng đồng khai thác.
« Vừa
hợp tác vừa đấu tranh » với TQ ở khu vực biển Trường Sa chỉ có nghĩa là
hai bên « hợp tác » khai thác trên thềm lục địa của VN, nhưng VN cố
gắng « tranh đấu » để hưởng nhiều hơn TQ một chút.
Còn
trong trường hợp khi TQ đã tuyên bố « vùng nhận diện phòng không »
trên khu vực bắc quần đảo Trường Sa, dĩ nhiên VN không thể « hợp
tác » được với TQ rồi, mà tranh đấu thế nào, thật tình là nan giải.
« Vừa
hợp tác vừa tranh đấu » của TT Nguyễn Tấn Dũng sẽ khả thi, nhưng cho thấy
đây là một bước lùi chiến lược, một nhượng bộ lớn lao của VN đối với các yêu
sách của TQ.
Giải pháp nào ?
Giải pháp tốt nhất vẫn là đưa vấn đề tranh chấp ra trước một trọng tài
quốc tế. Gần đây tôi có đề nghị một phương án pháp lý, VN đơn phương đệ đơn ra
tòa Công lý quốc tế, yêu cầu Tòa giải thích về hiệu lực ở một số điều trong các
công ước quốc tế nền tảng, gồm ba điểm.
Thứ nhất, yêu cầu trọng tài quốc tế tuyên bố rằng Việc chiếm hữu một
lãnh thổ bằng phương pháp vũ lực là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của LHQ.
Thứ hai, Việc TQ chiếm hữu các đảo ở Trường Sa năm 1988 bằng vũ lực
không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
Thứ ba, Việc chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa tháng giêng năm 1974 bằng vũ
lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
Các điều yêu cầu Tòa tuyên bố
hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Tòa Công lý Quốc tế, cũng không hề dính dáng đến
những bảo lưu của TQ về việc phân giải tranh chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc
tế.
Làm các việc này, thứ nhất,
là ta đưa vùng biển Hoàng Sa, là vùng mà TQ nói là không có tranh chấp, trở
thành vùng biển có tranh chấp. Thứ hai, sẽ ngăn chặn hành vi tuyên bố « vùng
nhận diện phòng không » của TQ ở vùng bắc quần đảo Trường Sa.
Theo tôi thì việc kiên tụng
này không tốn kém nhiều, cũng không có rủi ro VN bị thất kiện sẽ mất chủ quyền
ở HS và TS. Theo tôi thấy, giải pháp này của tôi hiện nay vẫn là một giải pháp
tốt nhất, tạo cho VN một lối thoát tránh những áp lực của TQ hiện nay.
Nhưng đó vẫn chỉ là tạm thời.
Điều cần thiết là VN phải thay đổi chế độ, phải dân chủ hóa chế độ, chia sẻ
những giá trị chung vơi Hoa Kỳ về dân chủ, về các quyền con người. Từ đó VN mới
có thể trở thành đồng minh của HK, ký kết những kết ước an ninh hỗ tương với
nước này. Việc dựa vào kẻ mạnh để tự vệ là điều mà các nước thường làm. Trong
khu vực, chỉ có VN là không làm việc này.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.