Tuyên ngôn « Magna Carta
Libertatum » của Anh quốc ra đời ngày 15 tháng 6 năm 1215, đến nay là đúng
800 năm, được xem là văn bản đầu tiên, làm nền tảng cho các hệ thống luật lệ và
hình thức tổ chức nhà nước « Rule of Law » và « Etat de
Droit » ở các nước tự do dân chủ hiện thời. Nội dung cốt lõi của Magna
Carta (được thể hiện ở các quốc gia tự do dân chủ) là quyền tự do của cá nhân
được bảo đảm bằng luật và sự thể hiện quyền lực của hoàng đế (nay là nhà nước) phải
tuân thủ theo luật lệ.
Nếu so sánh với tinh thần
« Magna Carta », 800 năm sau, thì cái gọi là « Pháp quyền Xã Hội
Chủ nghĩa » của nhà nước Việt Nam vẫn là một thứ lẩu thập cẩm về luật lệ. Hiến
pháp thực tế là « cương lĩnh » của đảng cộng sản cầm quyền trong một
giai đoạn nhứt định. Đảng là một tập đoàn « siêu quyền lực », được
hiến pháp cho phép lãnh đạo tuyệt đối mọi lãnh vực trong xã hội, nhưng không bị
chế tài bởi pháp luật. Tức là đảng đứng trên và đứng ngoài hệ thống pháp luật.
Toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào nhân sự đảng viên. Hiến pháp qui định
lực lượng công an, quân đội phải có nhiệm vụ bảo vệ đảng. Nếu xét cho kỹ, hệ
thống luật pháp của VN hiện nay còn kém hơn luật lệ của Anh từ 800 năm trước.
Bởi vì quyền lực của hoàng gia Anh phải tuân thủ pháp luật trong khi đảng CSVN
không hề bị chế tài bởi bất kỳ một điều luật nào.
Dầu vậy hệ thống luật lệ và cách
thức tổ chức nhà nước này được mệnh danh là « nhà nước pháp quyền ».
Vậy thì nguồn gốc của « pháp
quyền » trong cụm từ « nhà nước pháp quyền » đã đến từ
đâu ?
Theo TS Nguyễn Sĩ Dũng
trong bài « Hiến
pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền » :
“Năm 1919, trong Bản yêu sách được Nguyễn Ái Quốc gửi đến
hội nghị Vecxây, yêu sách thứ 7 là pháp quyền. Sau này, yêu sách đó được Bác
thể hiện thành lời ca: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh
pháp quyền” (Yêu cầu ca, Báo Nhân dân, ngày 30/1/77).”
Theo TS
Nguyễn Đình Lộc trong bài : « Hồ chí
minh : Trăm điều phải có thần linh pháp quyền và việc xây dựng hệ thống
pháp luật Việt Nam » :
“Cho đến nay, qua các tư liệu lịch sử có được, có thể
nói, đây là lần đầu tiên trong văn học sử Việt Nam xuất hiện khái niệm “pháp
quyền” và “pháp quyền” ở đây lại được nâng lên thành “thần linh” - một khái
niệm linh thiêng, làm nổi bật ý nghĩa tính chất “pháp quyền”, nổi bật ý nghĩa,
vai trò của pháp luật, của Hiến pháp trong đời sống xã hội.”
Như
vậy từ ngữ « pháp quyền », theo các học giả trên, là của ông Hồ.
Vấn
đề là ý nghĩa của “pháp quyền” mà ông Hồ sử dụng là gì ? Ông sử dụng từ ngữ này
trong dịp nào ? Muốn vậy ta phải tìm hiểu bản Yêu sách năm 1919 (Revendications
du peuple Annamite – Yêu sách của nhân dân An Nam) đã nói lên những điều gì.
Bài
vè lục bát tựa đề « Việt Nam yêu cầu ca », thực ra là bản “phóng tác”
của bản yêu sách 7 điểm viết bằng tiếng Pháp « Revendications du peuple
Annamite – Yêu sách của nhân dân An Nam » (mà các sử gia VN cho là của ông
Hồ), viết năm 1919 nhân dịp Hội nghị các đại cường thắng trận Đệ Nhất thế chiến
tổ chức tại Versaille. Gọi là “phóng tác” vì bài dịch này không phù hợp với ý
nghĩa tiếng Pháp của văn bản. Bài vè có câu :
« Bảy
xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền »
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền »
Nguyên
văn yêu sách số 7, bản tiếng Pháp :
« 7/
Remplacement du régime des décrets par les régimes des lois. »
(Nguồn : Les décolonisations au XXe siècle: La fin des empires européens
et japonais, Par Pierre Brocheux, Annexe 1.)
Tạm dịch ra tiếng Việt
là : thay thế chế độ pháp lệnh bằng chế độ luật lệ.
So sánh lại ta thấy ý
nghĩa tiếng Việt và tiếng Pháp của văn bản là không hoàn toàn chính xác. Trong
bản tiếng Việt nói đến « hiến pháp » mà điều này không thấy trong bản
chính tiếng Pháp. Nhưng đại cương về ý tứ thì có thể chấp nhận.
Ý nghĩa của điều 7 (tiếng
Việt) là gì ? « Xin » ở đây là « xin ai », ai xin ?
Hiến pháp này là hiến pháp nào ? Ai ban bố ?
Bản “yêu sách” gởi Hội
nghị Versaille, nơi các cường quốc thắng trận đang hội họp. Dĩ nhiên là “xin”
lãnh đạo các đại cường thắng trận, trong đó có Pháp quốc. Người xin dĩ nhiên là
tác giả của Văn bản (các sử gia VN thì cho là của ông Hồ).
Hiến pháp này là hiến pháp
nào ? VN lúc đó vẫn còn là “thuộc địa” của Pháp, được Pháp cai trị dưới
“chế độ pháp lệnh” (của Bộ Thuộc địa và quan Toàn quyền), chứ không theo luật
lệ (Hiến pháp) của mẫu quốc. Hiến pháp ở đây phải là hiến pháp của mẫu quốc.
Điều này sẽ rõ rệt nếu ta
xét lại điều 2 của bản Yêu sách :
« 2/
Réforme de la justice indochinoise par l’octroi aux Indigènes des mêmes
garanties judiciaires qu’aux Européens, et la suppression complète et
définitive des Tribunaux d’exception qui sont des instruments de terrorisation
et d’oppression contre la partie la plus honnête du peuple Annamite. »
(Nguồn :
Les décolonisations au XXe siècle: La fin des empires européens et
japonais, Par Pierre Brocheux, Annexe 1.)
Tạm dịch : cải cách
lại pháp lý Đông dương bằng cách ban bố cho người bản địa được bảo đảm về tư
pháp (tài phán) như là người Châu Âu đồng thời bãi bỏ vĩnh viễn tất cả những
loại Tòa án đặc biệt mà thực chất chỉ là những công cụ khủng bố và đàn áp thành
phần những người An Nam lương thiện nhất.
Chữ « l’octroi »
trong tiếng Pháp có nghĩa là « ban bố, ban phát ».
« Xin » để được
« ban phát » : quyền được bình đẳng về tài phán như người Châu
Âu.
« Bảy xin hiến pháp
ban hành - trăm điều phải có thần linh pháp quyền » ở đây có nghĩa là
xin hiến pháp của mẫu quốc ban hành những điều « luật » để bảo đảm
« quyền » của người « bản địa ».
VN lúc đó chưa lấy lại
« độc lập – souveraineté » thì không thể nói « hiến pháp »
trong câu này là « hiến pháp » của nước VN được.
(Giả sử rằng Tây thực dân lúc đó
chấp nhận bản Yêu sách, thay đổi hiến pháp, cho phép toàn dân Đông dương được
quyền “ngang hàng” với dân Tây mẫu quốc. VN (và Khmer, Lào) đã trở thành một
“lãnh thổ hải ngoại” của Pháp, như Nouvelle-Calédonie, Réunion... hiện nay. Các
dân tộc Đông dương (kể cả VN) đã có quốc tịch Pháp hết rồi ! Uổng quá phải
không ?)
Như
vậy « pháp quyền » của ông Hồ có ý nghĩa là “juridiction” (như các
định nghĩa của tự điển tiếng Việt xuất bản ở miền Nam trước 1975).
Vấn
đề đặt ra, ta có thể dùng tinh thần pháp quyền của ông Hồ để chuyển dịch ý
nghĩa của khái niệm « rule of law » của Anh (như đã thấy ở một số học
giả, nhà báo Việt Nam trong, ngoài nước hiện nay) được hay không ?
Theo
tôi là không được !
Thứ
nhứt, về cách dịch theo “word by word”. Thuật từ « rule of law » là
một nhóm từ chuyên môn thuộc về “khái niệm”, không thể tách rời ra từng chữ. Ý
nghĩa của nó là « sự ưu việt hay sự thống trị của pháp luật »
(prééminent de droit – primauté de droit). Tách rời từng chữ ra để dịch có thể
đúng trên con chữ, nhưng sẽ mất đi ý nghĩa “khái niệm” của thuật từ.
Tự
điển tiếng Hoa có lúc dịch là “pháp qui”, tức qui tắc luật pháp (luật chơi
trong cờ bạc). Có lúc dịch là “pháp trị”.
Cách
dịch thứ nhứt không đúng vì chữ “rule” ở đây không thể dịch là “qui tắc” mà
phải dịch là sự “thống trị” hay “ưu việt” (“règne” trong tiếng Pháp). Cách dịch
thứ hai tạm ổn vì “pháp trị” là một khái niệm “dựa theo luật để cai trị” hiện
hữu trong văn minh Trung Hoa từ lâu đời. Khái niệm “pháp trị” tương tự tinh
thần của “Magna carta” 800 năm trước của Anh nhưng kém một điều là không qui
định rõ quyền lực của hoàng đế có phục tùng luật pháp hay không. Dầu vậy, dùng
một từ “khái niệm tương ứng” để dịch một từ tương ứng là đúng cách.
Thứ
hai, như mọi người điều biết, ở Anh có đến hai khái niệm về luật : “common law” (luật do các phán lệ
của các quan tòa) hay “statute law” (luật do quốc hội ban hành). Luật pháp nước
Anh không đặt nền tảng trên hiến pháp (do quốc hội ban hành) mà trên các “phán
lệ”. Chữ “law” trong « rule
of law » là đến từ “common law”. Trong khi các xứ Châu Âu như Pháp, “état
de droit”, nền tảng luật pháp đặt trên hiến pháp. Ở đây luật là do quốc hội ban
hành.
Ý
nghĩa chữ “pháp quyền” của ông Hồ mang nội hàm luật “hiến định” (bảy xin hiến
pháp ban hành – trăm điều phải có thần linh pháp quyền), theo khái niệm “etat
de droit” của Pháp.
“Etat de Droit” được hiểu là “nhà nước xây
dựng trên sự tôn trọng pháp luật” (État fondé sur le respect de la loi), tương
đương với khái niệm “rule of law”.
Như
vậy, lấy một khái niệm mang nội hàm “luật hiến định” để dịch một từ mang nội
hàm “common law – droit commun – thông luật” là không hợp cách.
Thứ
ba, về từ ngữ, không ai giải thích được (đến hôm nay), chữ “quyền” trong “pháp
quyền” đến từ “quyền lực – power – pouvoir” hay từ “quyền lợi – right – droit”
? Nếu chưa xác định được nguồn gốc chữ “quyền” đến từ đâu thì mọi cách dịch đều
chỉ là miễn cưỡng.
Vì
vậy tôi cho là cách dùng từ “pháp quyền” để dịch “rule of law”, hay “nhà nước
pháp quyền” để dịch “état de droit” đều sai.
Tạm
chấp nhận, theo cách dịch của người Hoa, Nhật... là “pháp trị” (rule of law) và
“nhà nước pháp trị” (etat de droit). Nhưng chính xác phải là “tinh thần trọng
luật” hay “nhà nước (được xây dựng trên tinh thần) thượng tôn pháp luật”.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.