1/ Sự hiện diện của Trung Quốc ở khu vực biển Trường Sa.
Khu vực biển thuộc Trường Sa có thể giới hạn từ vĩ tuyến 6° đến vĩ tuyến 12°. Sự hiện diện của TQ tại khu vực biển này bắt đầu từ tháng 3 năm 1988, sau khi chiếm được trên tay của VN một số đá, bãi ngầm như đá Gạc Ma và Tư Nghĩa (cách nhau 30km thuộc nhóm Sinh Tồn), đá Chữ Thập, đá Châu Viên, đá Xu bi (thuộc nhóm Thị Tứ), đá Ga ven (nhóm Ba Bình, Nam Yết)... Trước đó, năm 1956, quân của Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) chiếm đảo Ba Bình (Itu-Aba). Đảo này được nhà cầm quyền bảo hộ Pháp tuyên bố chủ quyền ngày 10 tháng 4 năm 1933 và sáp nhập cùng năm vào tỉnh Bà Rịa.
Việc chiếm đóng đảo Ba Bình của Đài Loan, cũng như việc xâm lăng quần đảo Hoàng Sa năm 1974, không đem lại cho TQ chủ quyền lãnh thổ ở các nơi đây vì việc chiếm đóng đi ngược lại các nguyên tắc chiếm hữu được quốc tế qui định : Tại Hoàng Sa TQ chiếm hữu bằng vũ lực trong khi tại Ba Bình thì chiếm một lãnh thổ đã có chủ.
Hành vi chiếm đóng của TQ tại các bãi, đá thuộc Trường Sa ngày 14 tháng 3 năm 1988 lý ra sẽ không đem lại danh nghĩa chủ quyền cho nước này. Nhưng một số dữ kiện liên quan được tiết lộ gần đây cho thấy, trong chừng mực danh nghĩa chủ quyền của TQ (tại các bãi, đá mới chiếm năm 1988) đã được củng cố.
Theo các nhân chứng (trả lời phỏng vấn RFA 19-10-2011) có tham dự trong « cuộc chiến » thì quân đội VN được lệnh « không được nổ súng bất cứ giá nào ». Theo báo chí trong nước thì đó là « trận hải chiến mà súng nổ chỉ từ một phía ». Một tướng lãnh thuộc QDNDVN vừa mới lên tiếng xác định dữ kiện trên là có thật. Vị này còn cho biết lệnh trên là đến từ Lê Đức Anh.
Đây là một trường hợp đặc biệt về việc chiếm hữu lãnh thổ. Theo luật quốc tế, nếu TQ chiếm hữu lãnh thổ bằng vũ lực (như trường hợp Hoàng Sa) thì chủ quyền (vùng lãnh thổ này) sẽ không được nhìn nhận.
Trường hợp các bãi, đá chiếm năm 1988, dĩ nhiên TQ đã sử dụng bạo lực. Vấn đề là phía VN đã không sử dụng quyền « tự vệ chính đáng » (được Hiến chương LHQ qui định) để chống trả lại. Nhà nước VN cũng từ chối mọi thủ tục pháp lý (có sẵn) để tranh đấu chống lại TQ ở thời điểm đó (mặc dầu nhà nước CHXHCNVN có đầy đủ tư cách pháp nhân để thực hiện). Các công hàm phản đối dĩ nhiên không có hiệu lực bảo vệ chủ quyền mạnh mẽ bằng các phương tiện pháp lý.
Sự im lặng đồng thuận của VN (về chủ quyền các bãi, đá) kéo dài từ năm 1990 cho đến nay.
Phải chăng, một cách ám thị, VN đã từ bỏ chủ quyền (tại các bãi, đá đó) cho TQ ?
Các công hàm bảo lưu của VN gởi LHQ, năm 1996, khi TQ thông qua Luật Biển UNCLOS không nói rõ rệt về chủ quyền các bãi, đá đã bị TQ chiếm năm 1988, mà chỉ phản đối về hệ thống đường cơ bản của TQ (đồng thời khẳng định chủ quyền của VN tại HS và TS).
Việc khẳng định chủ quyền một cách « chung chung » như vậy là không đủ. Quần đảo Trường Sa bao gồm một khu vực biển rất lớn, trên hai triệu cây số vuông, có đến hàng ngàn bãi, đá, bãi ngầm, bãi cạn, đá chìm, đá nổi, đảo, cụm đảo… khác nhau. Các cấu trúc địa lý này một số rải rác, số khác tụ lại thành nhóm. Nhà cầm quyền bảo hộ Pháp đã chỉ tuyên bố chủ quyền các cụm đảo Trường Sa, An Bang, Ba Binh (Itu-Aba), Song Tử, Loại Ta và Thị Tứ chứ không bao gồm tất cả (bãi chìm, bãi nổi, đá chìm, đá nổi rải rác trên biển, cách nhau hàng trăm, hàng ngàn ki lô mét).
Dầu vậy, trên phương diện pháp luật quốc tế, các bãi, đá mà TQ chiếm của VN năm 1988, trên danh nghĩa đã thuộc chủ quyền của VN.
Đá Chữ Thập, trên danh nghĩa (địa lý) thì thuộc nhóm Tizard, bao gồm các đảo Ba Bình, đảo Sơn Ca, đảo Nam Yết… Pháp đã tuyên bố chủ quyền và sáp nhập cụm đảo này vào tỉnh Bà Rịa năm 1933.
Tương tự ở đá Châu Viên thuộc nhóm đảo Trường Sa, đá Xu bi thuộc nhóm Thị Tứ.
Hai đá Gạc Ma và Tư Nghĩa (còn gọi là đá Huy Gơ) thuộc nhóm Sinh Tồn mà nhóm này không thuộc danh sách các đảo đã được sáp nhập năm 1933. Nhưng theo các tài liệu của VN, trước 1975 cụm đảo này do VNCH chiếm đóng và tuyên bố chủ quyền.
Theo một phán lệ của quan tòa Max Huber về vụ kiện « quần đảo Palmas » trước Tòa Trọng tài năm 1928, chủ quyền một nhóm đảo tùy thuộc vào đảo chính. Ta có thể hiểu là, trong một nhóm đảo bất kỳ, bao gồm một đảo chính và các đảo phụ thuộc, quốc gia nào có chủ quyền ở đảo chính thì cũng sẽ có chủ quyền ở các đảo phụ thuộc chung quanh.
Nhà nước bảo hộ Pháp đã cẩn trọng tuyên bố chủ quyền không chỉ ở các đảo chính mà còn nhấn mạnh ở các đảo phụ thuộc.
Vì vậy hành vi chiếm đóng của TQ tại các bãi, đá ghi trên là không đem lại chủ quyền cho nước này. Đơn giản vì đã chiếm một lãnh thổ đã có chủ.
Ngoại trừ hành vi từ bỏ chủ quyền của nhà nước CSVN.
Các hành vi có thể ghi nhận là công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng và một số hành vi khác, bao gồm thái độ im lặng (đồng thuận ám thị) của nhà nước này trong một thời gian dài. Các « hành vi khác » quan trọng có thể nhắc là lãnh đạo đảng CSVN, ông Lê Khả Phiêu, nhìn nhận « có ba vùng biển tranh chấp » với TQ.
Điều này bảo kê sự hiện diện « chính đáng » của TQ tại vùng biển Trường Sa.
Ngoài VN, phía Phi Luật Tân cũng đã mở cơ hội cho TQ có mặt tại Trường Sa.
Năm 2005, chính phủ Phi đã ký kết song phương với với Trung Quốc thỏa thuận « thăm dò chung – JMSU » tại một vùng biển rộng lớn thuộc Trường Sa, trong đó một phần có chồng lấn với vùng biển và các hải đảo của VN. Vùng biển này bao gồm luôn Reed Bank (tức Bãi Cỏ Rong).
Tuyên bố của Lê Khả Phiêu và việc làm của Phi đã thừa nhận sự hiện diện chính đáng của TQ tại vùng biển liên hệ. Biến một vùng biển « không có tranh chấp » thành vùng biển « có tranh chấp ».
Hiện nay TQ ráo riết xây dựng các bãi, đá dã chiếm của VN.
Trên đá Chữ Thập (tên quốc tế là Fiery Cross Reef, tên TQ là Vĩnh thử tiều (Yongshu Reef). Theo thông tin tiết lộ từ báo chí của phía TQ (Kanwa Defense) dự tính của TQ là sẽ xây dựng tại đây thành một căn cứ quân sự hải quân và không quân, có chiều dài 5.000 mét, rộng 500 mét; phi đạo dài 2.000 mét để có thể tiếp nhận các loại chiến đấu cơ của TQ như SU 30, J 10, J 11…. Căn cứ này (và căn cứ trên đá Châu Viên), trên quan điểm quân sự, có thể ngăn chặn mọi tiếp tế của VN, đến từ bờ hay từ trung tâm Trường Sa, cho các đảo khu vực Trường Sa.
TQ cũng xây dựng hai căn cứ quan trọng thuộc cụm đảo Sinh Tồn : Gạc Ma và Tư Nghĩa. Hiện nay, đảo chính của cụm đảo Sinh Tồn không phải là đảo Sinh Tồn mà là hai đảo nhân tạo của TQ. Đảo Sinh Tồn (hiện do VN chiếm đóng) đã trở thành đảo “phụ thuộc”.
Chiến thuật “tầm ăn dâu” của TQ, Mỹ gọi là “xắt lát sa la mi”, thực ra chỉ mới bắt đầu ráo riết từ sau khi giàn khoan 981, vào tháng 3 năm 2013. Mọi hành vi của TQ đều được biện hộ vì cái cớ trả đũa vụ Phi đi kiện. Theo họ, Phi đã vi phạm tuyên bố DOC 2002, theo đó phải giữ “nguyên trạng”, không làm rắc rối thêm tình hình. Trong khoảng thời gian chưa tới hai năm, TQ đã bồi đắp các bãi đá, bãi ngầm thành các đảo có tầm vóc quan trọng. Trường hợp tương tự ở các xứ Trung Đông, các đảo nhân tạo phải mất thời gian xây dựng khoảng 10 năm.
Đối diện với một TQ hung hăng, dầu sao thì Phi cũng được Mỹ chống lưng. Hai bên có quan hệ “đồng minh” truyền thống. Còn VN thì nan đề chỉ mới bắt đầu. Dầu vậy, phía VN xem ra vẫn còn rất lạc quan. Họ vẫn tự hào vì đã đánh thắng bốn đế quốc sừng sỏ Pháp, Nhật, Mỹ và Trung Cộng. Vấn đề là học giả VN không chịu nhắc để lãnh đạo VN không bị « hào quang » chiến thắng làm mù mắt. Đó là, thắng đế quốc nào thì VN lúc đó cũng có liên minh với một cường quốc khác. Từ cây súng đến viên đạn đều do nước ngoài viện trợ. VN chỉ có xương và máu mà thôi.
2/ Cuộc chiến pháp lý :
Sẽ không có « cuộc chiến pháp lý » giữa Phi và TQ như nhiều học giả trong và ngoài nước đã nói. Vụ kiện của Phi về các hành vi và tuyên bố của TQ tại đá Hoàng Nham và một số bãi chìm, bãi cạn ở Trường Sa, đã được Tòa Trọng tài thụ lý nhận đơn, mà điều này sẽ không chắc giải quyết được điều gì.
Ngày 23 tháng giêng năm 2013, Bộ Ngoại giao Phi trao công hàm cho Bắc Kinh, đồng thời thông báo trước dư luận trong ngoài nước, việc Phi đã nộp hồ sơ đưa Trung Quốc ra Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Quốc Tế về Biển 1982. Hồ sơ kiện của Phi gồm 4.000 trang tài liệu, được Tòa Trọng tài Thường trực (La Hague, Hòa Lan) thụ lý. Tháng 6-2014, Tòa thông báo cho Trung Quốc, nước này có 6 tháng để nộp bản phản biện, thời hạn chót là ngày 15-12-2014. Như đã biết, từ ngày 19 tháng 2 năm 2013, bộ Ngoại giao TQ đã tuyên bố từ chối tham gia vụ kiện, và dĩ nhiên, không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa. Một bản Tuyên bố ngày 7-12-2014 đã được phía TQ công bố. Theo đó lập luận của TQ về các lý do không tham gia vụ kiện được trình bày khá rõ rệt.
Những lập luận đáng ghi nhận của TQ là : 1/ Tòa không có thẩm quyền vì cốt lõi của vụ kiện liên quan đến “chủ quyền lãnh thổ” mà điều này không thuộc phạm trù của Công ước Quốc tế về Biển 1982. 2/ Vụ kiện liên quan đến vấn đề “phân chia ranh giới biển” mà điều này TQ đã bảo lưu năm 2006 (loại trừ mọi biện pháp trọng tài có mục đích phân chia ranh giới biển).
Thái độ của TQ, không tham gia vụ kiện và không nhìn nhận thẩm quyền của tòa, không cản trở được quá trình thụ lý của Tòa Thường Trực. Nếu không có gì trở ngại, nội vụ sẽ xử vào tháng 7 năm 2015.
Phi yêu cầu Tòa tuyên bố, gồm 10 điều :
1.Các quyền của TQ và Phi ở biển Đông phải tuân thủ theo UNCLOS. (Các quyền được xác định theo phần II đối với lãnh hải và vùng tiếp giáp, theo phần V đối với vùng ZEE và theo phần VI đối với thềm lục địa).
2.Yêu sách đường 9 đoạn của TQ là vô giá trị.
3.Các cấu tạo lúc chìm lúc nổi, không nằm trong lãnh hải các quốc gia ven biển, thuộc đáy biển, thì không thể chiếm hữu, ngoại trừ cấu tạo đó nằm trên thềm lục địa của quốc gia theo phần VI UNCLOS.
4.Các bãi Vành Khăn, Mc Kennan, Xu Bi và Gaven là các cấu tạo chìm khi thủy triều lên, không phải là đảo theo qui định của điều 121 UNCLOS, cũng không nằm trên thềm lục địa TQ, việc TQ chiếm đóng có trái phép hay không và việc xây dựng trên các bãi cạn này có trái phép hay không ?
5.Bãi Vành Khăn và McKennan thuộc thềm lục địa của Phi theo phần VI của UNCLOS.
6.Bãi Hoàng Ngam và các đá Châu Viên, Gạc Ma, Chữ Thập là các bãi chìm, ngoài trừ vài mỏm đá nhô trên nước khi thủy triều lên. Chúng chỉ là « đá » theo điều 121 khoản 3 của UNCLOS, vì thế chỉ có thể có lãnh hải không quá 12 hải lý. TQ đã đòi hỏi một cách phi lý quyền mở rộng các vùng biển quá 12 hải lý tại các cấu tạo này.
7.TQ đã vi phạm luật pháp khi ngăn cấm các tàu của Phi khai thác các vùng biển cận Hoàng Nham và đá Gạc Ma.
8.Phi có quyền về lãnh hải 12 hải lý, ZEE 200 hải lý và thềm lục địa, theo các phần II, V và VI của UNCLOS, tính theo đường cơ bản quần đảo của Phi.
9.TQ đã yêu sách một cách bất hợp pháp các quyền đối với tài nguyên sinh vật và phi sinh vật và đã khai thác phi pháp các tài nguyên này và cũng đã vi phạm pháp luật khi không cho Phi khai thác các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng EEZ và thềm lục địa của mình.
10.TQ đã can thiệp một cách bất hợp pháp quyền tự do hàng hải của Phi được xác định theo UNCLOS.
Các điểm, theo tôi, Tòa không có thẩm quyền để tuyên bố là :
Điểm 3 và điểm 4 : về tình trạng pháp lý các cấu tạo địa lý lúc chìm lúc nổi (mà TQ hiện chiếm đóng và xây dựng). Công ước Quốc tế về Biển 1982 không đề cập đến việc các cấu trúc địa lý này có thể chiếm hữu hay không ? Phán lệ (hay án lệ) của CIJ trong vụ kiện giữa Qatar và Bahreïn. Tòa nói về việc này như sau:
“luật pháp quốc tế im lặng về tình trạng pháp lý của các bãi lúc chìm lúc nổi, các bãi này có thể xem như là một “lãnh thổ” hay không ? luật pháp hiện hành cũng không thể xác định là các bãi đó có thể xem như là một lãnh thổ tương đương với “đảo” hay không”.
Tuy nhiên, trong vụ tranh chấp giữa Tân Gia Ba và Mã Lai về chủ quyền của các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge qua phán lệ của Tòa án Quốc tế (CIJ) ngày 23-5-2008. Trường hợp tương tự, South Ledge là một đảo đá lúc chìm lúc nổi, chỉ thấy khi thủy triều thấp. Tòa có nhắc lại tình trạng mơ hồ về tình trạng pháp lý của các cấu trúc địa lý này trong vụ án Qatar và Bahreïn. Dầu vậy Tòa phán rằng South Ledge nằm ở vùng lãnh hải nước nào thì sẽ thuộc chủ quyền của nước đó.
Nếu phán quyết của Tòa CIJ ở trên trở thành một “phán lệ”, được áp dụng trong trường hợp các cấu trúc địa lý tương tự ở Trường Sa, thì chủ quyền các cấu trúc (lúc chìm lúc nổi) sẽ phụ thuộc vào các đảo chính. Tức là nước nào có chủ quyền ở đảo chính thì các cấu trúc phụ thuộc cũng sẽ thuộc chủ quyền của quốc gia đó.
Ở điểm này Tòa sẽ không có thẩm quyền phán xét. Đơn giản vì nó liên quan đến vấn đề “chủ quyền lãnh thổ” mà điều này nằm ngoài thẩm quyền của UNCLOS.
Điểm 5, đá McKennan thuộc nhóm đảo Sinh Tồn, phụ thuộc vào đảo Sinh Tồn. Trong khu vực đảo này TQ đã chiếm hai bãi (đá) Gạc Ma và Tư Nghĩa. Đá Vành Khăn sẽ phụ thuộc vào đá (nổi thường trực) hay đảo nào kế cận trong vòng 12 hải lý. Phía TQ tuyên bố có chủ quyền các đảo TS, theo Tuyên Bố đơn phương năm 1958 về hải phận 12 hải lý.
Ở điểm này Tòa cũng không có thẩm quyền, vì thuộc vấn đề “chủ quyền lãnh thổ”.
Điểm 6 nói về hiệu lực của “đảo” hay “đá” theo điều 121 UCLOS. Ở đây tranh luận là về lý thuyết luật học nhưng rất dễ sa vào lãnh vực “phân chia ranh giới biển” mà điều này Tòa cũng không có thẩm quyền do bảo lưu của TQ năm 2006.
3/ Hệ quả của “cuộc chiến pháp lý”
Xác suất 40% Tòa tuyên bố không có thẩm quyền là tiên đoán có cơ sở. (Tỉ lệ trên các điểm 3,4,5 và 6).
Nhưng với bấy nhiêu đó phía TQ cũng đã thắng lớn vì các tuyên bố chủ quyền và hành vi hành sử quyền chủ quyền của họ được nhìn nhận và khẳng định.
Nếu Tòa tuyên bố có « thẩm quyền », (chấp thuận tất cả các yêu cầu của Phi), phán quyết của Tòa vẫn không có giá trị ràng buộc đối với TQ. Đơn giản vì phán quyết của Tòa (quốc tế) chỉ có hiệu lực ràng buộc khi hai bên (quốc gia) cùng nhìn nhận thẩm quyền của Tòa.
Dầu vậy, trong chừng mực, phía Phi có thể có được tư thế « chính danh », từ đó có thể vận dụng các biện pháp « phòng vệ chính đáng », đơn phương hay tập thể (bằng cách thiết lập liên minh quân sự với các quốc gia khác). Phi có thể bảo vệ được lợi ích của họ. Tệ lắm thì cũng là trên danh nghĩa. Trong trường hợp này phía TQ vẫn không thua vì các cấu tạo địa lý (mà TQ đã chiếm của VN từ tháng 3 năm 1988) đã được xây dựng thành các đảo nhân tạo kiên cố và vững chắc (so với các đảo và các cấu trúc của VN và Phi).
TQ đã lợi dụng việc Phi đi kiện để tiến hành việc xây dựng các đảo nhân tại tại các cấu trúc địa lý tại Trường Sa. Vụ giàn khoan 981 đặt trên thềm lục địa VN vào tháng 5 năm ngoái thật ra chỉ là kế « giương đông kích tây » (mà điều này tôi đã cảnh báo). Việc TQ đưa tàu bè hút cát, nạo vét đại dương đến Trường Sa để thực hiện các công trình một cách rầm rộ như thế mà phía VN, cả năm sau, hoàn toàn không có một phản ứng nào. Biến cố giàn khoan 981 có thể đã che mắt mọi người, nhưng không thể che mắt nhà cầm quyền.
Vùng nhận diện phòng không (ADIZ) của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ sớm được thành lập (theo bản đồ dưới đây). Dĩ nhiên, tất cả các đảo, cấu trúc địa lý trong vùng biển (được bao che bởi vùng ADIZ) phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc. TQ không thể lập vùng nhận diện phòng không nếu có một vùng lãnh thổ (nào đó) ở phía dưới còn thuộc về một nước khác.
Các cấu trúc Bãi Chữ Thập, Đá Gạc Ma và đá Tư Nghĩa uy hiếp cụm đảo Sinh Tồn. Khi công cuộc xây dựng hoàn tất, được quân sự hóa, TQ không cần nổ một tiếng súng cũng có thể chiếm hoàn toàn cụm đảo Sinh Tồn (chỉ cần phong tỏa vùng biển). Các đảo khác cũng sẽ lọt vào TQ, dễ dàng như một thủ tục.
Việc xây dựng đảo nhân tạo không phải là điều mới mẻ. Từ các thế kỷ trước các nước Châu u đã xây dựng các cấu tạo địa lý trên biển để biến thành các công sự chiến đấu nhằm bảo vệ bờ biển và lãnh thổ.
Đối diện với các hành vi của TQ, chỉ có VN là phía bị thiệt hại nhiều nhất. Nhưng cũng chỉ có VN mới có thể phá vỡ thế trận của TQ. Vì chỉ VN mới có danh nghĩa chủ quyền ở các đảo TS. Điều ngạc nhiên là đến nay vẫn không thấy động tĩnh gì đến từ nhà cầm quyền CSVN.
Trên bình diện quốc tế, sự “im lặng” thường trực và lâu dài của VN đã khiến VN đã mất đi danh nghĩa chủ quyền tại các cấu trúc địa lý mà TQ đang bồi đắp.
Có thể các nghi ngại về thủ tục “kế thừa” VNCH và “hòa giải” dân tộc cần thiết để lập hồ sơ pháp lý đã khiến lãnh đạo CSVN chùng bước.
Hình trên: Vùng ADIZ của TQ, giả định của tác giả.
4/ VN cần có thái độ nào ?
Nghe báo chí loan tải, VN đã gởi hồ sơ lên Tòa, trong vụ kiện của Phi, không phải để tham gia vụ kiện mà nhằm bảo vệ (bảo lưu) quyền lợi của VN trong khu vực. Điều này tôi cũng đã cảnh báo từ sau khi Phi tuyên bố đi kiện. Lý do các chủ thể mà Phi đề cập tới hầu hết đều thuộc chủ quyền của VN.
Sự việc TQ ráo riết xây dựng trên các cấu trúc địa lý (chiếm được của VN), bắt đầu khi vụ kiện tháng giêng năm 2013, trong vòng một thời gian ngắn, đã biến các cấu trúc địa lý này thành những đảo nhân tạo. Như vậy chủ ý của TQ là phải hoàn tất việc xây dựng trước ngày Tòa tuyên bố (dự tính tháng 7 năm 2015).
Bước kế tiếp (có thể là hai bước song song) là TQ sẽ tuyên bố vùng “nhận diện phòng không” đồng thời tuyên bố phong tỏa vùng biển chung quanh các đảo Trường Sa. Vấn đề “tự do hàng hải” sẽ không ảnh hưởng vì TQ không có mục đích làm gián đoạn việc này. Các đảo (có người sinh sống) sẽ phải kéo cờ đầu hàng trong một thời gian ngắn vì thiếu nước và lương thực.
Bằng mọi cách TQ sẽ chiếm các đảo trong khu vực ADIZ mà họ đã vạch ra. Vì nếu còn một đảo nào đó thuộc chủ quyền nước khác, vùng ADIZ này sẽ không hiệu lực.
Việc xây dựng các đảo của TQ chắc chắn đã làm VN “chới với” nhưng lãnh đạo (và phần lớn học giả) VN vẫn dường như chưa nhìn thấy viễn ảnh nan giải phía trước. Lãnh đạo CSVN vẫn yên bình tổ chức hội nghị “sắp xếp nhân sự”, khẳng định “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Các nước chỉ trích hành vi của TQ mạnh mẽ nhất là Phi, Nhật và Hoa Kỳ.
Giải pháp tốt nhất (để phá nước cờ thế của TQ) hiện nay của VN là liên minh với Mỹ và tức thời lập hồ sơ đi kiện TQ.
Vì tình thế mới phải có kế sách mới.
Vụ Phi đi kiện TQ không thuyết phục được Tòa. Bởi vì các đảo mà Phi hiện chiếm đóng phần lớn là trái phép. Chỉ có VN mới có tư cách (hơn Phi) để kiện TQ ở Trường Sa.
VN cần phải dứt khoát thay đổi sách lược, dân chủ hóa chế độ để phát triển, giữ nước và tồn tại.
Về pháp lý là một chuyện, nhưng về địa chiến lược là chuyện khác.
Trên quan điểm địa chiến lược, TQ chỉ có thể trở thành “đại quốc” khi các nước chung quanh “yếu”.
Phần lớn các nước ngăn chặn TQ về mặt biển đều là các nước giàu. Mục đích của TQ là làm thế nào cho các nước này ít nhiều lệ thuộc vào TQ. Đã từ lâu TQ là động cơ cho phát triển của cả khu vực (và thế giới). GDP của TQ lên hàng thứ nhì và ngân sách quốc phòng cũng hàng thứ nhì trên thế giới (150 tỉ đô là số công bố. Số thật sự có thể lên gấp đôi).
TQ đã là một “nước lớn”. Các nước “giàu” trong khối ASEAN, hay Đại Hàn, Nhật đã “tương thuộc” một cách sâu sắc về kinh tế với TQ.
VN là một ngoại lệ. Nước này từ đầu thập niên 90 đã ngoan ngoãn nằm trong “quĩ đạo” của TQ. VN tuyên bố là không “liên minh” với nước nào. Điều này rất hợp ý Bắc Kinh. Dĩ nhiên TQ sẽ liên tục “giúp” mọi thứ để giúp cho VN giữ « nguyên trạng ». VN luôn là một nước “yếu” và nghèo đói kinh niên.
Một cái nhìn (địa chiến lược) khác, Mỹ lại không muốn thấy một “đại cường” TQ, đối trọng với Mỹ trong khu vực. Mỹ không thể tái dựng lại “chiến tranh lạnh” nhằm cô lập TQ mà chỉ có thể thiết lập một hàng rào các nước đồng minh để bao vây TQ. Các nước nằm trong “hàng rào” của Mỹ đều là các nước giàu (hay tương đối giàu hơn VN) và mạnh.
VN có vị trí rất “đắc địa”, vì là thanh kiếm dưới yết hầu của TQ. Dĩ nhiên được Mỹ coi trọng.
VN có hai lựa chọn:
Một là không liên minh với ai hết (theo như ý nguyện của Bắc Kinh) như hiện nay. Kết quả là nghèo đói kinh niên, (lãnh thổ mất lần hồi) vì đó là mục đích chiến lược của TQ.
Hai là “liên minh” với Mỹ để trở thành một nước giàu và mạnh (ít ra như Đại Hàn). Vì một VN nghèo đói sẽ không ngăn cản được TQ mà còn là một gánh nặng cho Mỹ.
Lựa chọn nào có lợi cho VN ?
Chỉ có liên minh với Mỹ VN mới có thể bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, vùng trời của quốc gia mình. Nước này, với một lực lượng luật gia hùng hậu, cũng là nước duy nhất có thể giúp VN trên mặt trận pháp lý.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.