Hội
nghị Ngoại trưởng của các nước ASEAN được tổ chức ở Vạn Tượng (Lào), bế mạc hôm
25-7, một bản Tuyên bố chung được công bố, trong đó nội dung phán quyết ngày
12-7 của Tòa Trọng tài Thường trực (CPA - Cour Permanente d'Arbitrage) đã không được nhắc đến.
Theo
tin tức báo chí, nguyên nhân đến từ việc cản trở của thành viên Campuchia.
Nhân họp báo, bộ trưởng Ngoại giao Chum Sounry của nước này cho biết : "tranh
chấp Biển Đông là tranh chấp giữa Phi và TQ chớ không phải giữa ASEAN và TQ. Vì
vậy, không nên đưa cả khối Asean vào vấn đề này, Campuchia không muốn dính dáng
đến vấn đề này,".
Trước
đây không lâu, báo chí cũng đăng tải tin tức về ông Hunsen, Thủ tướng Campuchia.
Ông này cho rằng sẽ không ủng hộ phán quyết sắp tới của Tòa Trọng tài Thường
trực (CPA) tại La Haye, Hòa Lan. Theo ông Hunsen, vụ Phi kiện TQ về việc diễn
giải và áp dụng sai Công ước 1982 về Luật Biển, là "một âm mưu chính
trị". Ông Hunsen cũng cho rằng vấn đề giữa Phi và TQ là chuyện riêng của
hai nước, không liên quan đến ASEAN.
Vấn
đề là Phi là một thành viên sáng lập khối ASEAN. Tranh chấp Biển Đông liên quan
trực tiếp đến nhiều nước ở Biển Đông, như Phi, VN, Mã Lai, Brunei. Tức tranh
chấp Biển Đông cũng là một vấn đề trọng tâm của ASEAN. (Và cả thế giới, do
quyền tự do hàng hải, vì Biển Đông là hải lộ quan trọng, luân lưu trên 50% hàng
hóa thế giới).
Phán
quyết của tòa CPA hôm 12-7 thực ra là việc "diễn giải và áp dụng các điều
trong bộ Luật Quốc tế về Biển 1982". Tức nhằm giải thích cách áp dụng
luật. Trong chừng mực, phán quyết cũng là "luật".
TQ
tự tiện diễn giải và áp dụng bộ Luật Biển 1982 theo cách của họ, chỉ có lợi cho
họ, bất chấp những thiệt thòi của các nước chung quanh.
TQ
áp dụng "quyền lịch sử", yêu sách 80% vùng Biển Đông. Tòa cho rằng
việc áp dụng "quyền lịch sử" đã không còn phù hợp với Luật biển 1982.
Tức là, ngay cả khi TQ chứng minh được rằng họ có "quyền lịch sử",
thì khi TQ ký nhận công ước Luật Quốc Tế về Biển 1982, quyền này cũng bị tan mất
đi. Vấn đề là TQ chưa hề có cái gọi là "quyền lịch sử" ở Biển Đông.
Tòa đã chứng minh rằng TQ qua bao thời đại, chưa hề kiểm soát trên thực tế vùng
biển này.
Từ
vấn đề "quyền lịch sử" ta mới hiểu lý do khác, (ngoài lý do viện trợ
tiền bạc của TQ), vì sao Campuchia không ủng hộ phán quyết của Tòa CPA.
Đến
nay một số đông chính trị gia Campuchia vẫn còn ủng hộ lập trường của ông Hoàng
Sihanouk, là đòi "quyền lịch sử" của Campuchia ở VN (như đòi quyền sử
dụng cảng Sài Gòn, sử dụng các thủy lộ Cửu Long... để về Nam Vang).
Trường
hợp TQ, khi ký vào Công ước Luật Biển 1982, quyền lịch sử (nếu có) của TQ bị
tan biến đi. Trường hợp Campuchia (và VN), sau khi độc lập, thoát ách thực dân,"quyền
lịch sử" của Campuchia (trên lãnh thổ Nam Kỳ) cũng bị tan đi. Công pháp
quốc tế không nhìn nhận hiệu lực của "quyền lịch sử". "Quyền"
bị thay thế bằng khái niệm luật học "uti possidetis". Khái niệm này có
nghĩa : nếu (trước khi độc lập) anh có (kiểm soát) vùng lãnh thổ đó, thì sau
khi độc lập anh tiếp tục giữ vùng lãnh thổ này.
Phía
TQ tẩy chay, không tham dự phiên Tòa, điều này không làm cho thẩm quyền của Tòa
CPA bị giảm sút. Cũng như các vận động rầm rộ của TQ nhằm "chính trị
hóa" phán quyết, cũng sẽ không giúp cho việc giải thích "Luật"
của TQ có giá trị hơn Tòa CPA.
Nhưng
quan điểm của các lãnh đạo Campuchia về phán quyết của Tòa rõ ràng đã phủ nhận
nền "quốc tế pháp trị", đã được thiết lập từ hệ quả của hai cuộc Thế
chiến. Theo đó mọi tranh chấp giữa các nước sẽ được giải quyết bằng luật lệ,
thay vì bằng vũ lực. Điều này có thể sẽ làm tổn hại đến quyền lợi của vương
quốc Kampuchia, một nước nhỏ, còn hiện hữu được là nhờ sự bảo vệ của Luật Quốc
tế.
Lịch
sử chứng minh, đã hai lần Campuchia bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ của mình
là nhờ "pháp luật quốc tế".
Khoảng
năm 2011, tranh chấp giữa Thái Lan và Campuchia về chủ quyền vùng đất (khoảng
4,5km²) chung quanh ngôi đền Preah Vihear khiến hai nước căng thẳng, ngấp nghé
bên bờ chiến tranh. Campuchia đệ đơn lên Tòa CIJ ngày 28-4-2011 yêu cầu Tòa
"giải thích lại phán quyết 1962".
Tranh
chấp ngôi đền này giữa hai nước đã từng được tòa Công lý Quốc tế (CIJ) phân xử năm
1962, theo đó ngôi đền này thuộc về Campuchia.
Việc
phân xử thời đó "đầy kịch tính", vì theo nội dung Công ước phân định
Biên giới Thái-Miên do Pháp và Thái lan thực hiện những năm 1893 và 1904, ngôi
đền Preah Vihear thuộc về chủ quyền của Thái Lan. Nhưng trên bản đồ (do Pháp
thực hiện sau đó vài năm) thì ngôi đền lại thuộc về Campuchia.
Cuối
cùng Tòa xử Thái Lan bị "estoppel", vì nước này đã không phản đối (các
tấm bản đồ vẽ sai) trong một thời gian dài. Tòa cho rằng, việc không lên tiếng
phản đối đồng nghĩa với việc chấp nhận. Dĩ nhiên là quần chúng Thái Lan không
đồng tình về phán quyết này.
Ngày
11-11-2013 Tòa CIJ nhóm họp lại và ra phán quyết, cho rằng khu đất 4,5km² đất
chung quanh ngôi đền cũng thuộc về Campuchia.
Phán
quyết cũng hết sức "kịch tính", vì nếu ta xét đến các tấm bản đồ phân
định biên giới, thì rõ ràng vùng đất này thuộc về Thái Lan. Và dĩ nhiên, dư
luận Thái Lan phản đối, không đồng ý với phán quyết này.
Trong
vụ tranh chấp này quan điểm "trọng luật" của ASEAN là rõ rệt.
Thông
cáo chung của các nước ASEAN có nội dung: "tôn trọng phán quyết của Tòa và
yêu cầu các bên thi hành án lệnh của Tòa tùy theo luật pháp của mỗi quốc
gia".
Thì
hôm nay, không có lý do nào để Campuchia ngăn cản khối ASEAN ra một tuyên bố yêu
cầu các bên "tôn trọng phán quyết của Tòa CPA". Phi là một thành viên
sáng lập ASEAN và phán quyết của Tòa CPA là giải thích luật, tức là "luật".
Cả
hai lần Tòa Công lý Quốc tế đều "xử ép" Thái Lan về chủ quyền ngôi
đền Preah Vihear của. Dầu vậy Thái lan không phản đối, ngăn cản ASEAN ra thông
cáo chung.
Campuchia
là một nước nhỏ, nhờ "luật quốc tế" bảo vệ mà lãnh thổ nước này mới
được "toàn vẹn" ngày hôm nay. Bây giờ, lãnh đạo Campuchia, có thể vì
được sự trợ giúp (hay hứa hẹn trợ giúp) tiền bạc từ phía TQ, lại có chủ trương
ủng hộ việc bất tuân luật lệ.
Đây
là một tiền lệ nguy hiểm cho Campuchia. Phía Thái lan, dân chúng vốn từ lâu bất
mãn với các phán quyết của CIJ (1962 và 2013), có thể nhân việc Campuchia ủng
hộ việc không tôn trọng luật pháp, sẽ đặt lại việc thi hành hai án lệnh này.
Điều
tệ hơn nữa là lãnh thổ của Campuchia hiện nay khoảng 50% diện tích đã được Pháp
lấy lại từ Thái Lan qua những kết ước quốc tế.
Mà nền
tảng của "quốc tế công pháp" là gì nếu không phải là những kết ước
quốc tế ?.
Sẽ
không có điều gì cấm cản Thái Lan phủ nhận mọi kết ước có liên quan đến biên
giới đã ký kết (dưới áp lực của Pháp) từ đầu thế kỷ 20.
Campuchia
lúc đó sẽ không thể phản biện lại Thái Lan. Bởi vì chính Campuchia đã ủng hộ cho
việc phủ nhận công lý quốc tế.
Trật
tự pháp lý quốc tế đảo lộn.
Trật tự
pháp lý quốc tế, được dựng lên từ Thế chiến II nếu không được các nước trong
khu vực tuân thủ, nó sẽ thay thế bằng trật tự mới do TQ áp đặt.
Trật tự pháp
lý cũ đặt nền tảng trên sự "bình đẳng về chủ quyền". Mọi quốc gia,
bất kể lớn nhỏ, mạnh yếu, dân đông hay dân ít... đều bình đẳng như nhau về
"chủ quyền".
Sự
bình đẳng về chủ quyền đã được thể hiện trong bộ Luật Quốc tế về Biển 1982.
Theo đó, một nước ven biển, bất kỳ lớn nhỏ, dân đông dân ít, được hưởng như
nhau 12 hải lý (tính từ bờ, hay đường cơ bản)
hải phận gọi là "lãnh hải" và 200 hải lý hải phận gọi là "kinh
tế độc quyền".
Bộ Luật
Quốc tế về Biển 1982 là "trật tự về biển" mà các nước trên thế giới
đã ký kết và tuân thủ.
Phán
quyết của Tòa CPA ngày 12-7 là việc giải thích luật, là "trật tự về
biển", áp dụng cho Biển Đông.
TQ đã ký
Công ước này. Bây giờ TQ tuyên bố không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa (vốn được
LHQ chỉ định) và cho biết sẽ không tuân thủ thi hành phán quyết này.
Ta thấy
bóng dáng một "trật tự pháp lý mới", do TQ áp đặt. Theo đó "chủ
quyền" không còn là đơn vị tối thượng và bình đẳng trong luật biển, mà "nước
lớn" quyết định việc phân chia biển.
Vấn đề là
các những "nước lớn" khác, đã khai sinh ra "trật tự pháp
lý" cũ, có chấp nhận việc này hay không ?
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.