mercredi 18 janvier 2017

Biển Đông sau chuyến thăm Trung Quốc của TBT Nguyễn Phú Trọng.

1/ Vấn đề “kiểm soát bất đồng trên biển”.
Sau chuyến đi TQ của TBT Nguyễn Phú Trọng 15 tháng giêng vừa qua, BBC đăng bài có tựa đề: VN-TQ thỏa thuận 'kiểm soát bất đồng' Biển Đông.
Bài báo cũng dẫn bình luận từ Tân hoa xã:
“hai bên tin rằng chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng đã "đạt thành công to lớn" trong việc nâng cao sự tin cậy chính trị giữa hai bên, thắt chặt quan hệ hữu nghị truyền thống, củng cố quan hệ đối tác chiến lược hợp tác toàn diện, và đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực”.
Tôi thì không hề tin chuyến đi của ông Trọng “đạt thành công to lớn” như Tân hoa xã đã phóng đại. Từ bao đời tổng bí thư, với biết bao nhiêu tuyên bố từ sau khi hai bên thiết lập lại bang giao 1991, hai bên luôn khẳng định những điều mà Tân hoa xã đã nói (là thắt chặt hữu nghị, quan hệ đối tác chiến lược, gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển...).
Những gì TQ hứa hẹn trên lý thuyết hoàn toàn trái ngược với những gì TQ đã làm  trên thực tế.
Các Tuyên bố chung giữa VN và TQ 2011, 2013, 2015, 2016, 2017… luôn khẳng định hai bên “không tiến hành các hành động làm thêm phức tạp, hoặc mở rộng tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc de dọa sử dụng vũ lực…”.
Trong khi trên thực tế thì các việc đặt giàn khoan 981 (tháng năm 2014) của TQ rõ ràng là hành vi “mở rộng tranh chấp và làm phức tạp tình hình”.
TQ nhứt quán trong lập trường là “không có tranh chấp ở Hoàng Sa”. Nhưng vị trí giàn khoan 981 là đặt trên thềm lục địa của VN. Mặc dầu giàn khoan đặt cách đảo Tri Tôn (thuộc HS) khoảng 20 hải lý, nhưng cái gọi là “đảo” Tri Tôn, thực tế chỉ là một thực thể địa lý nổi thường trực trên mặt nước biển, không có người sinh sống. Nếu đối chiếu với những nhượng bộ của VN trong Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, các đảo của VN như Cồn Cỏ, Bạch Long Vĩ… là những đảo thực sự, có đông đảo người sinh sống. VN đã (hầu như) bỏ qua hiệu lực “đảo” của các đảo này, chiếu theo điều 121 Luật Biển quốc tế. Mặt khác, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của VN, được khẳng định từ thời nhà Nguyễn. Nhà nước bảo hộ Pháp tái khẳng định lại hai lần, chủ quyền Hoàng Sa (và TS) thuộc VN, trước và sau Đệ nhị Thế chiến. TQ đã chiếm quần đảo này của VN bằng vũ lực 17-19 tháng giêng năm 1974.
TQ vừa không có tư cách khẳng định chủ quyền các đảo HS, chiếu theo Hiến chương LHQ, vì TQ đã chiếm bằng vũ lực. Trong khi các thực thể địa lý ở Hoàng Sa, cụ thể là đảo Tri Tôn, nếu đối chiếu với phán quyết của CPA ngày 14-7-2015, thì các đảo này không có cái nào có hiệu lực “đảo” theo điều 121. Lại còn thêm nhượng bộ (phải gọi là phi lý) của VN ở Bạch Long Vĩ và Cồn Cỏ.
Vì vậy hành vi đặt giàn khoan 981 của TQ là “mở rộng tranh chấp”, từ tranh chấp chủ quyền mở rộng qua tranh chấp về phân định biển (khu vực của vịnh Bắc Việt).
Chưa hết, thái độ hung hăng của các tàu hải quân, hải cảnh… của TQ, lúc bảo vệ giàn khoan 981, đã đâm chìm tàu của ngư dân VN (gây tử thương cho nhiều người), cũng như Tàu của các lực lượng này gây hấn đâm tàu hải cảnh của VN… dĩ nhiên, gọi đúng là hành vi chiến tranh, nhẹ nhàng là gây hấn… “làm phức tạp thêm tình hình”.
Sau đó TQ cho xây dựng các đảo nhân tạo và mở rộng chúng, ở các bãi đá ngầm chiếm (bằng vũ lực) của VN năm 1988. Sau đó xây sân bay với đầy đủ hạ tầng cơ sở cho không quân, hải quân, sau đó lại đặt các giàn hỏa tiễn địa không…
Hành vi của TQ cũng là “mở rộng tranh chấp”. Bởi vì, như đã nói, chiếu Hiến chương LHQ, chủ quyền của TQ ở các bãi đá này không được nhìn nhận. Trong khi các thực thể này, một số là đá ngầm, không thể chiếm hữu, theo Phán quyết 14-7-2015 của Tòa Trọng tài ở La Haye. Việc chiếm hữu bằng vũ lực các bãi là vi phạm Hiến chương LHQ.
Việc xây dựng đảo và “quân sự hóa” chúng vừa làm “phức tạp thêm tình hình”, lại vừa “đe dọa chiến lược” đối với các nước chung quanh. Hành vi của TQ cũng phạm Luật quốc tế, vì việc xây dựng đảo nhân tạo đã gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường biển.
Đồng thời cái gọi là “thỏa thuận kiểm soát bất đồng ở Biển Đông”, theo như tựa đề bài báo thì có nhiều điều cần xét lại.
Thời Nông Đức Mạnh, tuyên bố chung năm 2011 đã có nội dung về kềm chế sự “bất đồng”: “không để bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ hai nước”.
Đến thời Nguyễn Phú Trọng, như Tuyên bố năm 2013 nói về việc “kiểm soát tốt những bất đồng trên biển”. Tuyên bố 2015 nói đến việc “Hai bên nhất trí cùng nhau kiểm soát tốt bất đồng trên biển”. Tuyên bố 2017 thì nói “kiểm soát tốt bất đồng trên biển”.
Từ việc “kiểm soát tốt” để đi tới việc ký kết thỏa thuận “kiểm soát bất đồng”  là một bước dài. Người ta hoài nghi về sự hiện hữu của thỏa thuận này. Khoản 9 bản Tuyên bố chung 2017, nhiều thỏa thuận, kết ước hai bên đã được ký kết. Tuy nhiên không hề thấy thỏa thuận về “kiểm soát bất đồng trên biển”.  

2/ Vấn đề độc lập quốc gia.
Tháng mười 2016 ông Đinh Thế Huynh (nghe đồn đoán là sẽ thay thế ông Trọng), có chuyến đi thăm TQ. Nhân dịp này  Tập Cận Bình có nói với ông Huynh rằng :  "hai nước là một cộng đồng cùng chia sẻ tương lai".
Vấn đề là, ý nghĩa của câu "một cộng đồng cùng chia sẻ tương lai" chỉ dành cho nhân dân trong một nước. Chỉ có người dân trong một nước mới chia sẻ một tương lai chung.
Tuyên bố năm 2017 lặp lại ý kiến này :
"Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời,... có chế độ chính trị tương đồng, ... có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung…. "
Ta không thấy ý kiến tương tự ở thời TBT Nông Đức Mạnh, hay các TBT tiền nhiệm.
Ý kiến này, nếu theo dõi nội dung các tuyên bố chung giữa VN và TQ, ta thấy là của Tập Cận Bình, biểu lộ lúc ông này sang thăm VN năm 2015.
Sau chuyến đi của ông Trọng, ý kiến của họ Tập trở thành “tuyên bố chung của hai nước”.
Tuyên bố chung 2017 cũng ghi nhận hai bên đã ký “Thoả thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2017-2020”.
Ta không thấy thỏa thuận nào tương tự đã ký ở thời kỳ Nông Đức Mạnh hay ở các đời  TBT khác.
Dĩ nhiên VN không thể, vì không có khả năng và tư cách,  “đào tạo cán bộ cấp cao” cho TQ. Mà chỉ có ngược lại, TQ đào tạo “cán bộ cấp cao” cho VN mà thôi.
Cán bộ cao cấp của đảng cũng là nhân sự lãnh đạo đất nước. Bởi vì điều 4 HP qui định đảng CSVN là “lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”.
Thỏa thuận về “hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao” đã cho phép đảng CSTQ can thiệp vào quá trình đào tạo nhân sự lãnh đạo “nhà nước và xã hội” của VN.
Đây là sự xúc phạm thô bạo đến chủ quyền, đến nền độc lập tự chủ của VN.
Hiến pháp qui định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Thỏa thuận “đào tạo cán bộ cấp cao” của Nguyễn Phú Trọng đã tạo điều kiện cho người của TQ đào tạo nắm quyền lực của quốc gia trong tương lai.
Tuyến bố chung năm ngoái 2016, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã mở đường cho VN lệ thuộc vào TQ.
Tuyên bố 2016 ghi nhận một "Thỏa thuận hợp tác về giáo dục giai đoạn 2016 - 2020 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Giáo dục nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”.
Suy luận tương tự, VN đâu có đủ tư cách và khả năng để áp đặt một kiểu mẫu “giáo dục” cho thanh thiếu niên TQ? Thỏa thuận vì vậy chỉ nhằm mục đích cho phép TQ đào tạo thanh thiếu niên VN mà thôi.
Chưa hết, vấn đề giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, từ lâu các bên (có tranh chấp) đã đặt nền tảng trên Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC). Vấn đề là VN đã ký kết riêng với TQ nhiều thỏa thuận khác, như “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc” hoặc là “nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước”...
Làm các việc này có thể VN đã tạo sự nghi kỵ đối với các nước ASEAN khác, nhưng đồng thời VN cũng đã tự “song phương hóa” tranh chấp Biển Đông giữa VN và TQ.
Suy luận tương tự, VN đâu có khả năng, kinh tế cũng như quốc phòng, để có thể áp đặt TQ một giải pháp công bằng ?
Theo tôi, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phạm những lỗi lầm vô cùng trọng đại, vì đã làm thương tổn nền độc lập của một quốc gia có chủ quyền.
Dân tộc VN chưa bao giờ mong muốn “chia sẻ vận mệnh chung” với nhân dân TQ hết cả. Chưa bao giờ “tiền đồ” đất nước VN lại có mối “tương quan” với TQ hết cả.
Tiền đồ là gì ? Nghĩa tiếng Hán là “con đường phía trước, tương lai tốt đẹp phía trước”.
Khi “chia sẻ vận mệnh chung”, có “chung một tương lai”, thì VN đã không còn “độc lập và tự chủ” trong những quyết định của mình (về tương lai) nữa.
Ý kiến này đã củng cố giả thuyết cho rằng, các lãnh đạo VN đã cam kết sáp nhập VN vào TQ theo tinh thần Hội nghị Thành Đô. Vấn đề là không biết khi nào.
Việc này đã phá vỡ “nguyên tắc độc lập tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”, đã được khẳng định theo Tuyên bố chung VN và TQ về hợp tác toàn diện 2000.
Nó cũng đi ngược tinh thần Hiến chương LHQ “bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia”. Đồng thời đi ngược lại nội dung Tuyên bố “5 điểm chung sống hòa bình” của TQ.

3/ Rex Tellerson, vị cứu tinh của VN?
Cùng khoảng thời gian TBT Nguyễn Phú Trọng đi TQ, vị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa kỳ tương lai, Rex Tellerson, ngày 11-1 nhân buổi điều trần tại Thượng viện, đã có những tuyên bố liên quan đến Biển Đông. Trong chừng mực, nếu ý kiến của ông này được thực hiện, hầu hết các vấn đề ở Biển Đông sẽ tự động hóa giải.
Theo ông Tellerson hành vi TQ xây dựng đảo ở Biển Đông tương đương với hành vi Nga chiếm Crimée. Ông này khuyến cáo Washington rằng phải gởi một tín hiệu cứng rắn đến Bắc Kinh : 1/ TQ ngưng ngay các việc xây dựng đảo. 2/ TQ không được tiếp cận các đảo này nữa.
Câu hỏi đặt ra, Hoa Kỳ có thẩm quyền để phát biểu (như vậy) cũng như có khả năng làm việc này hay không ?
Theo tôi là Hoa Kỳ có thể phát biểu những lời như vậy.
Tellerson so sánh các đảo Biển Đông (mà TQ chiếm và xây thành đảo nhân tạo) với Crimée. Dĩ nhiên ai cũng biết Crimée thuộc Ukraine. Nhưng các đảo (mà TQ đã chiếm) có cái chưa xác định được tình trạng pháp lý (statut juridique), có cái đang trong tình trạng “tranh chấp chủ quyền” giữa nhiều nước, không ai biết chính xác chúng thuộc chủ quyền nước nào.
Có ba giả thuyết để Tellerson củng cố cho lập trường của mình.
Thứ nhứt, TQ không có chủ quyền ở các bãi đá, đơn giản vì họ xâm chiếm (của VN) năm 1988 bằng vũ lực. Ý kiến của Tellerson phù hợp tinh thần quốc tế công pháp.  
Thứ hai, vịn vào yếu tố Mỹ có quyền quản lý các đảo ở Thái Bình dương do Nhật chiếm đóng trước Thế chiến thứ hai (theo một điều ước Ủy hội Đồng minh, được Hội đồng bảo an LHQ thông qua ngày 2-4-1947). HS và TS thuộc Thái Bình Dương, có tầm quan trọng về chiến lược. Các đảo này bị Nhật chiếm đóng. Vì vậy Mỹ có quyền lên tiếng đòi quyền quản lý. Dựa trên lập luận này thì Mỹ có quyền “cấm” TQ léo hánh đến các đảo HS và TS.
Thứ ba, các đảo TS thuộc chủ quyền của Pháp. Vấn đề là Pháp “im lặng” về việc này từ sau khi rời VN cho đến nay. Pháp tuyên bố chủ quyền ở TS (13-4-1933), sáp nhập vào tỉnh Bà Rịa (26-7-1933), với lý do “khám phá” và chiếm hữu đầu tiên. Không quốc gia nào phản đối việc này. Sẽ là một sự “đảo lộn” về địa chính trị nếu bây giờ Pháp lên tiếng đòi TS và Mỹ ủng hộ yêu sách này.
Về khả năng, câu trả lời bỏ ngõ.
TQ có dám “mất tất cả” những gì đã tạo dựng lên, từ thập niên 1980 đến nay, (có thể còn mất thêm nhiều thứ quí giá khác như vấn đề ly khai…) để khai chiến với Mỹ hay không ?

Và Mỹ có dám “chấn thương nội tạng lâu dài” để gây chiến tranh với TQ vì những hòn đảo mà Mỹ không có (hay có mà ít) lợi ích chiến lược hay không ?

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.