samedi 19 octobre 2013

Khu vực từ Hữu Nghị Quan (Nam Quan) đến Bình Nhi Quan.

Cửa ải Hữu Nghị, Hữu Nghị Quan, xưa gọi là Nam Quan hay Trấn Nam Quan, là địa điểm trên đường biên giới Việt-Trung đã gây nhiều tranh luận trong giới học giả Việt Nam trong khoảng thời gian hai bên VN và TQ phân định lại biên giới, bắt đầu từ năm 2000.

Các học giả Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng trong tập « Sử Liệu về biên giới Ta và Tàu từ đời nhà Lý cho tới đầu thời Pháp thuộc » mô tả Nam Quan như sau :

« Trấn Nam-Quan -- hay ải Nam-Quan -- thuộc địa-giới châu Bằng-Tường [tỉnh Quang-Tây bên Tàu], đối-diện với các xã Đồng-Đăng và Bảo-Lâm thuộc châu Cao-Lộc [Văn-Uyên cũ], tỉnh Lạng-Sơn của ta. Hai bên cửa ải là núi đá cao ngất. Cửa ải Nam-Quan luôn-luôn khoá kín, chỉ mở khi có việc thông sứ chính-thức giữa hai nước. Theo Bắc-Thành Dư-Địa-chí [của Lê Đại-Cương] ở về phía bên phải cửa Nam-Quan có nhiều ải nhỏ như Ải Bang [ở châu Lộc-Bình], ải Tầm-Bang [ở xã Tam-Lộc], Ải Kiệm [ở xã An-Khoái], ải Na-Chi [ở xã Xuất-Lễ], ải Khấu-Sơn [ở xã Cần-Lua], Ải Du [hay cửa Du-Thôn ở xã Bảo-Lâm] và ở về phía bên trái cửa Nam-Quan có các ải Bố-Sa, Sơn-Tử [ở xã Tiên-Hội], ải Học-Mô [ở xã Hành-Lư], ải Bản Dương, Bản Quyên [ở xã Lạc-Khư], ải Nguyên-Anh, Bình-Công [ở xã Khánh-Môn], ải Bình-Nhi [ở xã Cửu-Dương]; thuộc châu Thất-Tuyền có các ải Bắc-Bố, Khấu-Trung [ở xã Nghĩa-Điền], ải Ba-Tạm, Cảm-Môn [ở xã Cụ-Khánh], ải Na-Mân, Khô-Thịnh [ở xã Nghĩa-Khản], ải Kiều-Lễ, Kiều-Lân [chưa rõ ở xã nào], ải Cốc-Ngoạ [ở xã Bình-Lục], Ải Hoa, Ải Mộ [ở xã Nông-Đồn]. Đối-diện với các ải của ta, bên đất Trung-quốc cũng có những cửa ải của họ. Các cửa ải này có tính-cách phòng-thủ, quân-sự và không dùng trong việc giao-thông giữa hai nước Việt—Trung »

Như thế cách thức tổ chức về hành chánh và quân sự ở các cửa biên giới ngày trước cũng tương tự như hôm nay : bên kia đường biên giới có đồn bót hải quan của TQ canh phòng thì bên này đường biên giới cũng có tương tự đồn bót hải quan của Việt Nam. Đường biên giới hai nước là đường đi giữa hai cửa ải. (Điều cần tìm hiểu là tên gọi các cửa ải của hai bên có trùng nhau hay không ?)

Theo công ước Pháp-Thanh 1887, đoạn biên giới này được phân định trên thực địa, theo biên bản ngày 7 tháng 4 năm 1886.
(Trong quá trình phân định biên giới Pháp-Thanh, chỉ có hai đoạn biên giới được phân định trên thực địa, do ông Bourcier de Saint-Chaffray phụ trách : đoạn từ Nam Quan đến Bình Nhi Quan và đoạn từ Nam Quan đến ải Chí Mã. Đoạn biên giới Nam Quan – Bình Nhi Quan được cắm mốc theo biên bản ngày 21-4-1891, do ông Frandin làm chủ tịch ủy ban. Công trình cắm mốc này chỉ được công nhận theo biên bản tổng hợp ngày 19-6-1894, do ông Galliéni làm chủ tịch ủy ban.)

Có hai bản đồ 1/50.000 được thực hiện (khu vực Bình Nhi – Nam Quan và khu vực Nam Quan – Chí Mã), vẽ mực màu trên nền vải trắng.

Theo HUBG 1999, đoạn biên giới từ cửa Nam Quan đến Bình Nhi Quan nằm trong hai tấm bản đồ số 28 và 29 của bộ bản đồ vừa công bố.

So sánh nội dung các văn bản và các bản đồ của hai kết ước 1887 và 1999, một số ghi nhận về đoạn biên giới này như sau :

1/ Hướng đi đường biên giới theo HUBG 1999 không phù hợp với đường biên giới theo mô tả của các biên bản phân định 1886. 2/ So sánh bản đồ, VN bị mất đất ở nhiều điểm, trong đó có làng Lũng Nghiêu. 3/ Hầu hết các địa danh ngày xưa trong khu vực này, ngoài các tên như Nam Quan, Bình Nhi…, các tên khác đều không còn thấy trên bản đồ.

Hướng đi đường biên giới đoạn từ Nam Quan đến Bình Nhi, được mô tả theo biên bản phân định biên giới Pháp-Thanh ngày 7-4-1886 như sau :

« …từ một điểm được xác định cách cổng Nam Quan 100 thước trên đường từ Nam Quan về Ðồng Ðăng (cột số 18), đường biên giới theo hướng Tây, đi lên đỉnh ngọn núi đá mà trên đó có một đồn binh được đánh dấu là điểm A ở trên sơ đồ kèm theo đây. Đường biên giới, từ điểm này, theo đường sống núi của bức tường núi đá nhìn xuống con đường Ðồng Ðăng, cho đến điểm B đánh dấu trên sơ đồ (cột số 17). Ðiểm B là điểm mà con đường mòn - đường mòn này là một nhánh rẽ của con đường Ðồng Ðăng đi Nam Quan - dẫn đến làng Lũng Nghiêu (Lũng Ngọ 隴午, còn viết là Lộng 弄) cắt bức tường núi đá. Ðường biên giới theo con đường mòn cho đến cổng làng Lũng Nghiêu. Từ cổng, đường biên giới đi lên ngọn rặng núi đá bọc chung quanh làng Lũng Nghiêu để đi đến điểm C (cột số 16). Từ điểm C, đường biên giới đi về hướng Tây cho đến cửa Ki Da (trên bản đồ ghi Khua-Da, có lẽ là Cửa Du, tức ải Du).

…từ cửa Ki Da (cửa Du), đường biên giới đi về hướng tây bắc, qua đỉnh núi được đánh dấu là D, cho đến cửa ải Bố Sa (cột số 15) và cửa ải Hong-Meun (đối diện với của Bố Sa). Các bản, làng Na-Lau, Na-Han, Na-Choc và Na-Ngoa thuộc về Bắc Kỳ. Từ cửa Bố Sa, đường biên giới đi về hướng Bắc, theo đỉnh các ngọn núi cao, cho đến điểm E ghi trên bản đồ, và từ điểm E cho đến hai đồn binh (Hy Tự Tiền Dinh và Hy Tự Tiền Dinh Pháo Ðài) của Tàu đánh dấu là F (cột mốc 14) và G (cột mốc 13). Từ điểm G, đường biên giới nghiêng về hướng Tây Bắc cho đến một đồn binh của Tàu bỏ hoang đánh dấu là H, từ điểm này đến cửa ải Sơn Tự 山寺, (cột số 12) và theo hướng Bắc cho đến đồn binh Kéo-Cho được đánh dấu là I (Sơn Tự Ngoại Sách, cột số 11) và đồn này thuộc Trung Hoa.

... đường biên giới tiếp tục đi về hướng Bắc cho đến ải Thượng Dương 上楊 ; từ cửa Thượng Dương đường biên giới theo hướng Tây Bắc, đi qua cửa ải Bản Quyên, đến điểm đánh dấu J. Từ điểm J đường biên giới theo hướng Ðông Bắc cho đến một đồn binh bỏ hoang được đánh dấu K. Từ đây đường biên giới xuống sông Kì Cùng sau khi qua đồn binh đánh dấu L. Ðường biên giới đến sông tại điểm đánh dấu M và từ điểm này theo sông cho đến khúc ngoặc được đánh dấu N ».
….

Có tất cả 18 cột mốc được cắm trên đoạn biên giới này. Vị trí cột mốc được mô tả theo biên bản 21-4-1891 (công trình Frandin). Tên và số thứ tự cột mốc được xác định theo biên bản 19-6-1894 (công trình Galliéni) như sau :

Cột thứ 18, Trấn Nam Quan ngoại : Trên đường Nam Quan về Ðồng Ðăng (cách cửa 100 thước về hướng Nam)

Cột thứ 17, Khiêu Giá Sơn : Cắm trên đèo nhỏ cắt đường sống núi, trên con đường mòn đến Lũng Nghiêu. Đường mòn này tẻ ra từ con đường Ðồng Ðăng – Nam Quan.

Cột thứ 16, Lộng Diêu Ngoại Sách : Cách làng Lộng Diêu 250 thước về hướng Tây, trên đường mòn đi đến Khua Da.

Cột thứ 15, Bố Sa ngoại sách : cắm tại cửa ải Bố Sa.

Cột thứ 14, Nã Thốt Lĩnh : cắm trên đỉnh núi, cách làng Na-Thot 500 thước về hướng đông nam.

Cột thứ 13, Lục Lê Lĩnh : cắm về phía tây, cách công sự Hi Tự Tiền Dinh Pháo Ðài 100m.

Cột thứ 12, Sơn Tử ngoại sách : cắm tại cửa ả Sơn Tử.

Cột thứ 11, Na Phiêu Lĩnh : cắm về phía đông nam, cách 400m cửa làng Na-Phéo.

Cột thứ 10, Ba Khẩu ngoại sách : cắm về phía tây, cách 150 m công sự Kéo-Chu.

Cột thứ 9, Lăng Thôn ngoại sách : Tại cửa Thuong-Dong.

Cột thứ 8, Ba Mễ ngoại sách.

Cột thứ 7, Quyên Thôn ngoại sách : Tại cửa ải Quyên Thôn.

Cột thứ 6, Phần Quan Lĩnh : Cách 200 thước về phía đông bắc của hợp lưu suối Ban-Quyen và con suối có hướng chảy bắc nam (Phan Quan Linh 6).

Cột thứ 5, Cang Anh ngoại sách : cắm tại một cửa ải cũ, ở cách 500 thước điểm cao (côté 345).

Cột thứ 4, Cổn Ma Lĩnh : Cắm về phía đông của thung lũng Na-Dong, gần con đường đi từ Luc-Bac đến Tra-Kieu.

Cột thứ 3, Bình Công ngoại sách : Cắm trên một ngọn đồi cách 250 thước về phía đông bắc của điểm cao (côté 294).

Cột thứ 2, giác Hoài Lĩnh : Cắm tại một cái đèo rất thấp, cách 1000 thước về phía Nam của công sự Na-Ho.

Cột thứ 1, Bách Tặng Lĩnh : Trên một ngọn đồi nhìn xuống sông Kì Cùng, cách sông 150 thước.



Bản đồ vẽ theo các biên bản cắm mốc ở trên, do các ủy viên cắm mốc in tại nhà in ở Việt Nam năm 1894, được chụp lại (gồm 3 hình) sau đây :

Nam Quan 1

Hình Nam Quan 1.

Nam Quan 2

Hình Nam Quan 2.

Nam Quan 3

Hình Nam Quan 3.

Trên bản đồ này làng Lũng Nghiêu thuộc về Việt Nam.

Bản đồ khu vực Nam Quan đến Bình Nhi theo HUBG 1999 :

Nam Quan 4

Hình Nam Quan 4.

Nam Quan 5

Hình Nam Quan 5.

Để ý đến hướng đi và vị trí các cột mốc theo biên bản cắm mốc, đường biên giới theo công ước 1887 (hình Nam Quan 1) đi qua các cửa ải, các cột mốc cắm tương đối xa nhau (vài km), không quá nhiều đoạn quanh co khúc khuỷu.

Trên bản đồ HUBG 1999 (Nam Quan 5), một số nơi các cột mốc cắm chi chít và san sát với nhau, đường biên giới ngoằn ngoèo, lồi ra lõm vào.

Đường biên giới vẽ màu hồng là đường biên giới theo HUBG 1999. Màu đỏ theo công ước 1887.

So sánh (hai hình Nam Quan 1 và Nam Quan 5), ta thấy các khu vực trong vòng xanh là các khu vực trọng yếu VN mất cho Trung Quốc :

1/ Khu vực trước cửa ải Nam Quan, khoảng 300m so với đường biên giới cũ.

2/ Toàn bộ làng Lũng Nghiêu của VN đã mất cho Trung Quốc.

3/ Đường biên giới tại cửa Bố Sa, tức cửa Tam Thanh hiện nay, đã lấn sang VN khoảng trên 200m.

So sánh bản đồ (Nam Quan 2) và (Nam Quan 5): Các dấu gạch chéo màu đỏ, từ dưới lên trên, tuần tự là cột mốc số 8, 7 và 6. Cột mốc số 6 được cắm “Cách 200 thước về phía đông bắc của hợp lưu suối Ban-Quyen và con suối có hướng chảy bắc nam”. Hợp lưu của hai con suối là nơi gạch chéo màu xanh.

Trên bản đồ HUBG, đường biên giới phần lớn chiều dài của nó là con đường mòn để cảnh sát biên phòng đi tuần. Trong thời Pháp thuộc con đường này thuộc VN.

Điều ghi nhận khác, hầu hết các địa danh của VN ngày xưa đã không còn nhìn thấy trên bản đồ mới. Các phần đất bị lấn sang VN phần nhiều thuộc những vùng ở giữa hai cột mốc, tức ở giữa hai cửa biên giới.

VN mất đất khu vực này là khá quan trọng về diện tích và rất quan trọng cho phần phòng thủ biên giới.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.