Đặng Tiểu Bình có thể là một thiên
tài, một kiến trúc sư lớn, xây dựng thành công mô hình « xã hội chủ nghĩa
theo bản sắc Trung Hoa », giúp đất nước này thoát cảnh nghèo đói và chậm
tiến. Nhưng trên quan điểm chiến lược quân sự, họ Đặng có nhiều khuyết điểm. Ông
không phải là một nhà chiến lược quân sự có tài. Thất bại liên tục hai
cuộc chiến biên giới 1979 và 1984 trước một nước nhỏ là Việt Nam đã chứng minh
điều này.
1/ Thất bại về chiến lược quân
sự của Đặng Tiểu Bình :
Lịch sử nhân loại cho ta thấy đường
biên giới giữa hai quốc gia được thành hình do kết quả của « tương quan
lực lượng » giữa hai bên. Đối với nhiều học giả Trung Quốc, đường biên
giới miền bắc VN, do Pháp và nhà Thanh hoạch định theo các công ước 1887 và
1895, là một đường biên giới « bất bình đẳng », gây thiệt hại cho TQ.
Những người này cho rằng công ước được ký kết trong lúc nhà Thanh bị uy hiếp, nhà
Thanh phải « nhượng » VN lại cho Pháp mà không có sự trao đổi (về đất
đai) nào. Trước chiến tranh (Pháp-Trung 1884) xảy ra, hai bên Pháp và nhà Thanh
đã có thương lượng về số phận của Việt Nam. Năm 1883, theo tinh thần một kết ước giữa Lý Hồng Chương và viên Đặc
sứ Toàn quyền Pháp tại Bắc Kinh là ông Bourée, Pháp nhìn nhận đường biên giới
hai bên là một đường vẽ ở khoảng giữa vĩ tuyến 21 và 22 (từ Lào Cai ra biển), trong khi
phía nhà Thanh đòi hỏi biên giới đi qua tỉnh Ninh Bình. Tuy nhiên, sau khi
chính phủ Ferry lên nhậm chức ở Paris, kết ước này bị hủy bỏ, ông Bourée (cho
là bị Lý Hồng Chương mua chuộc) bị bãi chức và triệu hồi.
Cuộc chiến 1979 cho thấy « mục
tiêu quân sự » của họ Đặng có thể là xác lập lại đường biên giới
Việt-Trung, theo tinh thần của kết ước Bourée – Lý Hồng Chương. « Mục tiêu
quân sự » của họ Đặng là chiếm các vùng đất đã hoạch định : từ Lào
Cai ra biển. (Tại vùng Lạng Sơn, biên giới theo sông Kỳ Cùng). Các « mũi
nhọn » chiến lược của các đạo quân TQ trên vùng biên giới cho ta thấy điều
này.
Thất bại cuộc chiến 1979, cũng là
thất bại chua cay của Đặng Tiểu Bình. Chua cay vì VN bị tấn công cùng lúc trên
hai mặt trận : phía bắc và phía tây nam. Toàn bộ lực lượng của VN đã dồn
về biên giới Kampuchia, biên giới phía bắc hầu như bỏ ngỏ. Quân TQ (với gần
300.000 quân cùng xe tăng đại pháo), vậy mà không hoàn tất được mục tiêu quân
sự. Quân TQ chịu tổn thất lớn và đã mất quá nhiều thời gian (gần một tháng) để
chiếm Lạng Sơn, lúc Liên Xô đã quyết định vào cuộc. TQ không thể ở lại các vùng
đất đã chiếm, vì lo ngại Liên Xô can thiệp, trong khi quân VN vẫn còn ở lại
Kampuchia (cho đến cuối thập niên 80).
Lý do thất bại, họ Đặng đã không
nghe lời các tham mưu, có kinh nghiệm trên thực địa. Những người này khuyên nên
chiếm một vùng đất giới hạn mà VN không thể chiếm lại được (như huyện Trùng
Khánh) hay khu vực biên giới Thanh Thủy.
Thất bại lần thứ hai, chiến dịch
biên giới Vị Xuyên năm 1984. Cuộc chiến này cũng khốc liệt, dài dẵn cho đến
cuối năm 1989, nhưng trong dân chúng (cũng như trước quốc tế), sự xung đột này
bị hai bên dấu nhẹm.
Mục tiêu quân sự của phía TQ có thể
là thiết lập lại đường biên giới khu vực Hà Giang (xã Thanh Thủy) theo đúng như
tinh thần công ước 1887 và công ước bổ túc 1895.
Nội dung hai công ước này, biên
giới trong khu vực là con suối Thanh Thủy (chứ không phải là đường phân thủy,
qua các đỉnh núi (gồm Lão Sơn...) như trên bản đồ hiện nay. Có thể tham khảo sơ
lược tại http://nhantuantruong.blogspot.fr/2014/07/nhan-120-nam-chien-tranh-trung-nhat.html
).
Sau nhiều năm xung đột, phía TQ vẫn
thua. Thua vì không đạt được mục tiêu quân sự. Đường biên giới hiện nay (có
thay đổi chút đỉnh) nhưng vẫn không phải là con suối Thanh Thủy, như mong muốn
của họ Đặng.
(Tác giả sẽ trở lại vài dịp khác để
trình bày vì sao biên giới khu vực xã Thanh Thủy (huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
giang) không phải là con suối Thanh Thủy như đã qui định của các công ước Pháp
Thanh 1887 và 1895.)
2/ Về di sản « lý thuyết và
thực tiễn » của Đặng Tiểu Bình trong vấn đề phát triển Trung Quốc :
Theo cuốn « Từ lý luận đến
thực tiễn » của tác giả Trần Tiên Khuê, các định hướng chính của họ Đặng
là xây dựng quốc gia Trung quốc thành « một nước phát triển toàn
diện », một quốc gia « sáng lập tự do dân chủ xã hội chủ
nghĩa », với các tiêu chí như sau :
« Mục tiêu của
Trung Quốc là trở thành một nước nêu gương phát triển toàn diện, một nước sáng lập
tự do dân chủ xã hội chủ nghĩa.
« Thứ nhất, làm
một nước hòa bình và phát triển, không bành trướng xâm lược, không cướp đoạt
đối với bên ngoài, dựa vào sức mình và lớn mạnh.
« Thứ hai, sáng lập
tự do dân chủ xã hội chủ nghĩa, sáng tạo văn hóa, sáng tạo văn minh nước lớn xã
hội chủ nghĩa kiểu mới.
« Thứ ba, không
yêu cầu người khác tuân theo y nguyên mô hình phát triển của mình …
« Thứ tư, Trung Quốc
cần có cống hiến đáng kể đối với nhân loại, nhất là cần chủ trì công bằng, chủ trì
chính nghĩa, ra sức giúp đỡ các nước vừa và nhỏ phát triển, không đòi hỏi bất
cứ điều kiện gì. »
Hiển nhiên cái gọi là « xã hội
chủ nghĩa theo bản sắc Trung Quốc » hiện nay, nguyên thủy bắt nguồn từ ý
kiến « tự do dân chủ xã hội chủ nghĩa » của Đặng Tiểu Bình. Các tư
tưởng « nền tảng » của họ Đặng, như về « miêu luận », về « dò
đá qua sông »… tựu trung ở việc giải thích thuần túy lý thuyết, sao cho việc
xây dựng Trung Quốc (bằng thể thức cũng như vốn liếng, khoa học kỹ thuật của tư
bản) hài hòa, không bị mâu thuẩn với chủ thuyết nền tảng lập quốc « xã hội
chủ nghĩa » của Mao Trạch Đông.
Họ Đặng đưa ra những khẩu hiệu « phát
triển », « hòa bình »… nhằm để trấn an các nước (giúp đỡ Trung
Quốc như Mỹ, Nhật, Nam Hàn…) cũng như các nước lân bang để được sự trợ giúp về
tư bản và kiến thức khoa học lỹ thuật. Việc này họ Đặng đã thành công. Trung
Quốc hiện nay phát triển vượt mức, trở thành cường quốc thứ hai về kinh tế trên
thế giới. Trao đổi hàng hóa giữa Trung quốc với Hoa Kỳ, Nhật, Nam Hàn, các nước
Tây Âu... chiếm phần lớn lưu lượng hàng hóa trên thế giới. Trung Quốc trở thành
« đầu tàu » lôi kéo sự phát triển kinh tế của cả thế giới.
Tuy nhiên trong nội bộ của Trung
Quốc, các khẩu hiệu « Trung Quốc hòa bình quang phục », « Trung
Quốc hòa bình quật khởi »… được loan truyền. Dĩ nhiên, việc « quang
phục », tức lấy lại (một cách vinh quang) những gì đã mất, thì không thể
thực hiện bằng phương thức « hòa bình ».
Chi phí lớn nhất của Trung Quốc
hiện nay là quân sự. Ngân sách dành cho quốc phòng của nước này đứng thứ nhì
trên thế giới, (gần hai trăm tỉ đô la), chỉ sau Hoa Kỳ. Lãnh đạo Bắc Kinh không
giải thích được lý do vì sao phải chi tiêu lớn lao cho quân sự (trong thời
bình), như Mỹ phải đối phó với các chiến trường Trung Đông, về các đe dọa khác
trên thế giới. Trung Quốc không bị đe dọa bởi thế lực nào.
Nỗ lực của Trung Quốc dành cho
« quốc phòng » chỉ có hai ý nghĩa : một là chuẩn bị cho chiến
tranh, hai là răn đe không cho chiến tranh xảy ra. Ngoài ra là vấn đề Đài Loan.
Vấn đề « thống nhất
đất nước », đối với đảng lãnh đạo, là thánh thức lớn. Đảng Cộng sản Trung
quốc có trách nhiệm thống nhất đất nước, nhằm khẳng định tính chính thống (là
một đảng lãnh đạo chứ không phải là đảng cách mạng).
Đài Loan có vai trò quan
trọng cho TQ về kinh tế. Nếu không nói quá, Đài Loan là động cơ của phát triển
kinh tế của TQ ngay từ những ngày đầu mở cửa. Đầu tư ở các tỉnh Quảng Đông và
Phúc Kiến phần lớn đến từ tài phiệt Đài Loan. Về địa lý chiến lược, Đài Loan
giữ vai trò cửa ngõ để hải quân TQ đi ra « biển xanh » (để có thể
« đối đầu » với hải quân các cường quốc Mỹ, Tây Âu...)
Về địa lý chiến lược, phía
Đông, Trung Quốc bị kềm hãm trong vùng nước cạn của Đông Hải, bởi bức trường
thành thiên nhiên là quần đảo Nansei (Nam Tây) của Nhật, chạy dài từ cực Nam
của đảo Kyushu cho đến phía Bắc đảo Đài Loan. Phía Đông và Đông Nam, Trung Quốc
bị ngăn chận bởi Đài Loan và Phi. Phía Nam, tức biển Đông theo tên gọi của Việt
Nam, cũng là vùng biển cạn, trong đó còn có khoảng 130 đảo san hô rải rác trong
một vùng 100km chiều ngang và 200km chiều dài, bao bọc bởi các nước Việt Nam,
Phi, Nam Dương, Mã Lai và Brunei. Trong các vùng biển cạn, cận bờ và có nơi đầy
cạm bẫy đá và san hô, tàu ngầm không thể hoạt động hữu hiệu.
Trung Quốc chỉ có thể trở
thành « đại quốc » nếu tàu ngầm chiến lược của Trung Quốc ra vào an
toàn vùng biển sâu và rộng của Thái Bình Dương. Việc này chỉ có thể thực hiện
nếu Đài Loan và Biển Đông nằm dưới kiểm soát của Trung Quốc.
Trong khi đó, đà phát
triển của TQ khiến TQ trở thành một nước « đói » năng lượng. Vùng
biển Đông, các vùng trầm tích chạy dọc theo bờ biển VN, các bãi Tư Chính, Vũng
Mây, Phúc Tần, Phúc Nguyên… trên thềm lục địa VN, hay vùng bãi Cỏ Rong thuộc
quần đảo TS, hay là vùng thềm lục địa chung quanh quần đảo Điếu Ngư, là những
vùng có thể có trữ lượng dầu khí. Mặt khác, các nơi đó đều là các ngư trường
quan trọng trên thế giới. Trước đây, Tưởng Giới Thạch (khi vạch bản đồ chữ U)
đã xem đó là « không gian sinh tồn – espace vitale » của Trung Quốc.
Tiêu chí họ Đặng, « hòa
bình và phát triển, không bành trướng xâm lược, không cướp đoạt đối với bên
ngoài, dựa vào sức mình và lớn mạnh », có thể thực hiện được, nhưng
không thể bằng các phương pháp (diều hâu) của các thế hệ kế thừa, mà nạn nhân
là Việt Nam và Phi, như đã thấy hiện nay.
Hành động cho đấu thầu 9
lô trên thềm lục địa VN năm ngoái, cho đặt giàn khoan 981 mới đây, hay các việc
cắt cáp tàu nghiên cứu của VN, trong hải phận của VN, hay việc chiếm bãi cạn
Scarborough của Phi...
Hiện nay Trung Quốc đã ra mặt tranh
chấp (một cách gay gắt) với Nhật về chủ quyền quần đảo Điếu Ngư, đơn phương
tuyên bố thành lập « vùng nhận diện phòng không » (ADIZ) trên biển
Hoa Đông. Trong Biển Đông, lãnh đạo Bắc Kinh đã thể hiện những hành vi bành
trướng về lãnh thổ (và hải phận), gây hấn đối với láng giềng chung quanh (Việt
Nam, Phi, Mã Lai…) làm đảo lộn trật tự đã thiết lập từ Thế chiến II đến nay.
Như thế mục tiêu của việc gia tăng lớn
lao ngân sách quốc phòng của Trung Quốc nhiều sác xuất là chuẩn bị cho chiến
tranh (chứ không nhằm giải phóng Đài Loan). Lãnh đạo Bắc Kinh không thể phục
hồi những gì (lãnh thổ) đã mất (một cách vinh quang) bằng phương pháp hòa bình.
Các việc này cho
thấy hậu duệ của họ Đặng đã không xây dựng Trung Quốc thành một « đại quốc »
theo tiêu chí « hòa bình » của Đặng Tiểu Bình, mà theo tư tưởng xâm
lược Đại Hán.
Đặng Tiểu Bình cũng nói nhiều về
« nước lớn - đại quốc », mà Trung quốc hướng tới : « nước
lớn xã hội chủ nghĩa kiểu mới ». « Xã hội chủ nghĩa kiểu mới »
tức là « tự do dân chủ xã hội chủ nghĩa », nay gọi là « xã hội
chủ nghĩa theo bản sắc Trung Quốc » đã nói ở trên.
Các thế hệ hâu duệ của học Đặng đã
xây dựng đất nước đến đâu rồi ?
Quan niệm về « nước lớn – đại
quốc » theo Đặng Tiểu Bình là :
« Một đại quốc phải hội đủ các điều kiện
: Thứ nhất, kinh tế phát triển hàng đầu thế giới. Thứ hai, chiến lược quân sự ở
địa vị tiên phong. Thứ ba, tuyên truyền tư tưởng văn hóa có thể ảnh hưởng đến
toàn cầu. Thứ tư, có ảnh hưởng chính trị lớn nhất thế giới. »
Có thể trong chừng mực Trung Quốc
hiện nay đã trở thành một « đại quốc » về kinh tế và quân sự. Nhưng
hai tiêu chí về văn hóa và chính trị vẫn còn là thánh đố.
Từ thời Giang Trạch Dân, người kế
thừa trực tiếp từ Đặng Tiểu Bình, ta đã biết đến các khẩu hiệu xây dựng Trung
quốc : « hòa bình phát triển » và xây dựng « nhà nước pháp
trị xã hội chủ nghĩa » (đề xướng năm 1997). Ở Hồ Cẩm Đào ta biết đến khẩu
hiệu « xã hội hài hòa ».
Nguyên nhân của khẩu hiệu « xã
hội hài hòa » do từ những khuyết tật xã hội Trung Quốc. Phát triển ở đây
không đồng đều (hài hòa). Chỉ một phần nhỏ dân chúng hưởng thành quả của việc
phát triển thần kỳ về kinh tế, trong khi phần lớn dân chúng còn lại sống trong
cảnh bất công và nghèo khó.
Thời kỳ của Giang và Hồ đã không
làm được gì để thay đổi hình ảnh (xấu) của TQ trên thế giới. Tức là phương diện
văn hóa và chính trị vẫn là con số âm. Mặc dầu lãnh đạo Bắc Kinh cố gắng xây
dựng những học viện Khổng Tử ở các nước nhằm loan truyền văn hóa Trung Hoa,
nhưng thành quả vẫn chưa thấy.
Hiện nay Tập Cận Bình, người tự
xưng là « hậu duệ » của Đặng Tiểu Bình, « kế thừa » di sản
của ông này, đưa đề cương « Trung Hoa Mộng – giấc mơ Trung Hoa » (như
để cạnh tranh với « giấc mơ Hoa Kỳ » của những người muốn đến Mỹ quốc
để tìm cơ hội). Nhưng điều mà là họ Tập cố gắng thực hiện (trong lúc này) là
xây dựng « nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa », qua các việc bài trừ
tham nhũng trong hàng ngũ lãnh đạo, nhằm chấn chỉnh lại xã hội Trung Quốc.
Tập Cận bình đã nhìn thấy yếu điểm
của Trung Quốc và muốn sửa chữa. Hiện nay nỗ lực xây dựng « nhà nước pháp
trị xã hội chủ nghĩa » của họ Tập bị đồng hóa với việc thanh trừng. Điều
này cho thấy, « giấc mơ Trung Hoa » của họ Tập, có thể trở thành ác
mộng cho chính ông, nếu việc cải cách thất bại.
Tiêu chí của Đặng Tiểu Bình về « nước
lớn » chỉ có thể thực hiện, nếu văn hóa và chính trị Trung Quốc, tức là
kiểu mẫu phát triển của Trung Quốc, « quyến rũ » được các nước khác. Mà
việc này chỉ có thể hiện thực nếu nhà nước Trung Quốc là một nhà nước pháp trị
(thật sự), đảng lãnh đạo là một đảng « cầm quyền » chứ không phải là
một đảng « cách mạng ». Việc phát triển phải hài hòa, đem lại phúc
lợi cho toàn thể người dân trong nước mà không loại trừ bất kỳ thành phần dân
chúng nào.
Lúc đó Trung Quốc mới có thể « cống
hiến cho nhân loại, chủ trì công bằng, chủ trì chính nghĩa, ra sức giúp đỡ các
nước vừa và nhỏ phát triển... » như là nước Mỹ hiện nay.
Con đường đi lên « đại quốc » của
Trung Quốc được Đặng Tiểu Bình khẳng định :
« không theo
đường « bá quyền thực dân » của Bồ Đào Nha hay Hòa Lan ở thế kỷ thứ 16 và 17.
Con đường của Trung Quốc cũng không theo bá quyền lãnh đạo tự do kiểu Mỹ hay bá
quyền xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, đặc biệt là sự thống nhất bá quyền quân sự
với bá quyền hình thái ý thức ».
Nhưng hành vi của các hậu duệ của
họ Đặng lại phủ nhận tiêu chí của Đặng tiểu Bình.
Trường hợp Dương Khiết Trì trong
một buổi họp hồi năm ngoái giữa các lãnh đạo ASEAN và bà ngoại trưởng Clinton,
thực sự là thái độ « bá quyền thực dân ». Việc dọa nạt các nước khác
(ASEAN) là « các tiểu quốc – nước nhỏ » là hành vi của
một « thái thú », bất chấp
nguyên tắc cơ bản của LHQ là sự bình đẳng giữa các nước. Ngoài ra, gần đây,
cũng ông này, sang VN nhân vụ giàn khoan 981. Thái độ của ông này đối với VN rõ
ràng là thái độ hách dịch giữa « thượng quốc » với « chư
hầu » chứ không phải là sự giao thiệp giữa hai quốc gia bằng hữu. (Tuy vậy
việc này là do phía VN, vì đồng hóa quan hệ quốc gia với « việc gia
đình », hơn là từ phía TQ).
Trong khi họ Đặng (cũng như các
lãnh đạo khác của TQ) ảnh hưởng sâu đậm lý thuyết « Địa Chiến lược –
Không gian sinh tồn » của Friedrich Ratzel (sách gối đầu của Hitler). Mục tiêu
đi tới « đại quốc » của họ Đặng (và hậu duệ) vì thế cũng dựa trên lý
thuyết này. (Xem lại ở đây : http://nhantuantruong.blogspot.fr/2014/06/thoat-trung.html
)
Nếu như thế, ta cần phải hiểu tư
tưởng của họ Đặng « ở giữa hai hàng chữ », tức nói vậy mà không phải
vậy. Tức là tiêu chí « nước lớn » : « một nước hòa bình và
phát triển, không bành trướng xâm lược, không cướp đoạt đối với bên ngoài, dựa
vào sức mình và lớn mạnh » chỉ là chót lưỡi đầu môi.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.