Nan giải của Việt Nam về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày độc lập của Việt Nam có là
ngày 2-9-1945, ngày ông Hồ đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra quốc gia Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), hay bất kỳ một ngày nào khác sau 1975, việc này không
làm thay đổi được thực tế cũng như lịch sử. Đó là đảng CSVN đã lãnh đạo toàn
diện ở miền Bắc, sau đó trên toàn cả nước từ 30-4-1975 cho đến hôm nay. Nhưng trên phương diện pháp lý, Việt
Nam độc lập ngày nào lại có tác động rất lớn lên danh nghĩa chủ quyền của Việt
Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Quan điểm chính thống của Việt Nam hiện nay ngày 2-9 là ngày độc lập, là
ngày “xóa bỏ chính quyền nhà nước của thực dân và phong kiến”. Quốc gia tên gọi
VNDCCH là quốc gia duy nhứt, thống nhứt ba miền bắc, trung, nam. Thực thể Quốc
gia Việt Nam, sau này đổi tên là Việt Nam Cộng Hòa, do thực dân và đế quốc (âm
mưu chia cắt đất nước) dựng lên. Chính quyền VNCH là « ngụy », làm « tay
sai » cho thực dân và đế quốc. Theo Lê Duẩn (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III), nhiệm vụ của đảng CSVN là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo
của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”. MTGPMN được đảng dựng lên để thực thi việc này.
Câu hỏi đặt ra, trong trường hợp này chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc về nước nào ?
Nhà nước VNDCCH đoạn tuyệt với “nhà nước của thực dân và phong kiến”. VNDCCH
không thừa kế bất kỳ một danh nghĩa nào từ nhà nước tiền nhiệm (thực dân và
phong kiến). Lãnh thổ (miền Bắc) và quyền lực của VNDCCH có được là do chinh
phục (chứ không do kế thừa).
VNDCCH cũng không kế thừa bất kỳ danh nghĩa nào từ VNCH. Lãnh thổ miền
nam cũng là lãnh thổ chinh phục được chứ không phải là lãnh thổ kế thừa. Trên
phương diện pháp lý, VNDCCH không thể kế thừa những danh nghĩa về chủ quyền của
VNCH. Đơn giản vì người ta không thể kế thừa cái mà trước đó mà người ta đã phủ
nhận.
Quốc gia tên gọi VNDCCH là một “quốc gia mới”, do ông Hồ dựng lên, lãnh
thổ và quyền lực có được do chinh phục. Một số đảo ở TS do VN quản lý hiện nay
là đến từ sự “chinh phục”, không phải do kế thừa của VNCH.
Mới đây, một số dữ kiện, tài liệu gồm văn kiện chính thức và một số bản
đồ của VNDCCH đã được Trung Quốc công bố ở diễn đàn LHQ. Theo đó nhà nước
VNDCCH của ông Hồ đã nhìn nhận HS và TS thuộc TQ.
Như vậy, nếu đứng trên quan điểm chính thống của VN hiện nay, chủ quyền
HS và TS là thuộc về TQ. Nhà nước CHXHCNVN hiện nay là nhà nước “kế tục” VNDCCH.
Trên quan điểm công pháp quốc tế, nhà nước này có nghĩa vụ thi hành những cam
kết về lãnh thổ của nhà nước tiền nhiệm.
Tuy vậy, lập trường của nhà nước CHXHCNVN hiện nay là HS và TS thuộc chủ
quyền của VN. Các viên chức nhà nước VN hiện nay cố gắng phản biện lý lẽ của TQ
bằng cách dựa vào hồ sơ chủ quyền HS và TS do VNCH lập nên.
Mà việc này chỉ có hiệu quả pháp lý nếu quan niệm chính thống về ngày “độc
lập 2-9” cũng như cách nhìn lịch sử về thực thể VNCH thay đổi.
Các việc này thực hiện được hay không tùy thuộc lãnh đạo VN hiện nay biết
đặt quyền lợi của đất nước lên trên hay không.
Ngày 2-9-1945 không
phải là ngày “độc lập”.
Theo định nghĩa thông thường, « độc lập » của một quốc gia là
tình trạng quốc gia không chịu ảnh hưởng của bất kỳ một quyền lực nào đến từ
bên ngoài. Thời kỳ sau Thế chiến thứ II, thuật ngữ « độc lập » luôn
đi đôi với « chủ quyền ». Một quốc gia sau khi thoát khỏi ách thuộc
địa thường được gọi là « quốc gia độc lập và có chủ quyền – Etat indépendant
et souverain ». Ý nghĩa của « chủ quyền », một cách đơn giản, có
thể hiểu như là quyền lực tối thuợng, chủ tể (thẩm quyền của mọi thẩm quyền)
trong quốc gia.
Với ý nghĩa như vậy thì ngày 2-9-1945 không thể là ngày độc lập của quốc
gia Việt Nam.
Một tuần lễ sau ngày ông Hồ đọc « tuyên ngôn độc lập », ngày
9-9 quân đội của Trung Hoa đã có mặt tại Hà Nội. Quyền lực của VN từ thời điểm
này thuộc về lực lượng quân đội TH (ở miền bắc) và quân Anh (ở miền Nam).
Không nắm được “quyền chủ tể”, VNDCCH của ông Hồ không phải là quốc gia “có
chủ quyền”.
Sự hiện hữu của thực thể « quốc gia VNDCCN » cũng bị đe dọa,
vì nó tùy thuộc vào quyết định của quân
Trung Hoa. Nền “độc lập” của VNDCCH vì vậy cũng không có thật.
Quốc gia VNDCCH cũng không được một quốc gia nào công nhận.
Một khuyết điểm lớn khác, đe dọa tính chính thống của ông Hồ và những
người cộng tác sau này. Đó là việc ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông Hồ ký với Pháp
một hiệp ước gọi là « hiệp ước sơ bộ ». Theo đó Pháp nhìn nhận chính
phủ của ông Hồ, với VN là một nước « tự do » nằm trong Liên bang Đông
dương và Liên hiệp Pháp.
Hiệp ước sơ bộ không hề nói một nước Việt Nam “độc lập” mà chỉ nói một
nước « Việt Nam tự do » thuộc « Liên bang Đông dương » và
khối « Liên hiệp Pháp ». Tức ông Hồ chấp nhận « quốc gia »
Việt Nam, không bao gồm Nam Kỳ mà thực chất là một « tiểu bang » hay
« xứ », nằm trong Liên bang Đông Dương, có qui chế pháp lý tương
đương với xứ Bắc Kỳ.
Qua những chi tiết này ta thấy ngày 2-9 không thể là ngày “độc lập” của
VN.
Và nó là một điều may cho dân tộc VN.
Chấp nhận thực tế này, những văn bản, tài liệu của VNDCCH nhìn nhận chủ
quyền Hoàng Sa và Trường Sa thuộc TQ là không có giá trị pháp lý.
Vậy VN độc lập ngày
nào ?
Ngày nào cũng được, nếu việc này giúp cho VN khẳng định được chủ quyền
tại HS và TS.
Theo công pháp quốc tế, chủ quyền của quốc gia tại một vùng lãnh thổ
phải thể hiện một cách liên tục, bất kể những thay đổi về thể chế chính trị.
Chiếu theo hòa ước 1884, nước Pháp đã cam kết “bảo vệ lãnh thổ” của nước
An Nam, thay mặt triều đình nhà Nguyễn về các phương diện ngoại giao và nội
chính.
Theo tình thần hòa ước này, từ năm 1925, nước Pháp đã long trọng thay
mặt nhà Nguyễn tuyên bố An Nam có chủ quyền lịch sử tại quần đảo Hoàng Sa,
sau đó sáp nhập quần đảo này vào tỉnh Thừa Thiên. Nhà nước bảo hộ cũng tuyên bố
sáp nhập quần đảo Trường Sa vào VN năm 1933 dưới danh nghĩa “lãnh thổ vô chủ”.
Hiệp định Genève 1954 ký kết, hai quần đảo HS và TS, ở về phía nam vĩ
tuyến 17, do VNCH quản lý.
Điều này cho thấy là tại HS và TS, từ thời nhà Nguyễn, chuyển sang thời
bảo hộ Pháp, cho đến năm 1975, thẩm quyền quốc gia Việt Nam về lãnh thổ luôn luôn
được thể hiện một cách liên tục trên các vùng lãnh thổ này.
Sự liên tục quốc gia đã thể hiện.
Vấn đề chỉ đặt ra sau 30-4-1975. Chính quyền VNCH đã bị sụp đổ. Chủ
quyền HS và TS có được được Chính phủ lâm thời MTGPMN kế thừa hay không ?
Sự
kế thừa một quốc gia là thay thế quốc gia đó trong trách nhiệm những quan hệ
quốc tế về lãnh thổ.
Vấn
đề kế thừa VNCH sẽ không đặt ra, vì một nước VN thống nhứt sau đó, Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa VN là nhà nước “tiếp nối” VNDCCH.
Mặt
khác, CHXHCNVN do VNDCCH và CPLTCHMNVN kết thành. Nhưng nhân sự lãnh đạo thực
thể MTGPMN là một bộ phận của đảng CSVN. Nhân sự lãnh đạo hai bên VNDCCH và
MTGPMN đều nằm trong đảng. Hai bên vì vậy cũng là một.
CHXHCNVN
hôm nay không thể cùng lúc kế thừa hai lập trường đối kháng.
Ngày độc lập 2-9 đã đưa tới sự bế tắc về pháp lý (CHXHCNVN hôm nay có
nghĩa vụ thực thi những cam kết của nhà nước tiền nhiệm VNDCCH) như phần trên
đã viết. Trở ngại lớn lao vừa trình bày, là sự gián đoạn về chủ quyền của VN
tại HS và TS. CHXHCNVN không thể “kế thừa” danh nghĩa chủ quyền HS và TS từ VNCH
hay từ MTGPMN.
Trong khi đó trên thực tế, đã chứng minh, VNDCCH không phải là một quốc
gia độc lập có chủ quyền, ít nhứt cho đến khi Hiệp định Genève được ký kết
(20-7-1954).
VNDCCH cũng không phải là quốc gia Việt Nam duy nhứt, thống nhứt ba
miền. Nội dung hiệp định Genève qui định VNDCCH chỉ mà “một phần” của quốc gia
Việt Nam mà thôi. Điều này khẳng định lại theo nội dung Hiệp định Paris 1973.
Việc thống nhứt đất nước là vấn đề "nội bộ" của quốc gia Việt Nam.
Việc thống nhứt đất nước là vấn đề "nội bộ" của quốc gia Việt Nam.
Dựa trên thực tế này tất cả những tuyên bố, những hành vi của VNDCCH
(nhìn nhận HS và TS thuộc TQ) là không có giá trị pháp lý. Đơn giản vì nó đi ngược là nội dung các hiệp ước quốc tế nền tảng 1954 và 1973 về "toàn vẹn lãnh thổ".
Vì vậy, vấn đề chủ quyền HS và TS tùy thuộc vào quyết tâm của lãnh đạo đảng
CSVN. Những người này có đặt quyền lợi đất nước lên trên hay không ? Có dám
nhìn sự thật lịch sử hay không ?
Nếu dám nhìn sự thật, ngày độc lập của VN có thể là ngày 30-4-1975.
Ngày này có đủ các yếu tố để trở thành ngày độc lập: thẩm quyền quốc gia
bao trùm trên toàn lãnh thổ. Thẩm quyền này “độc quyền” và “tối thuợng”. Tuy
nhiên, lúc đó cộng đồng thế giới vẫn chưa nhìn nhận VN là một nước “độc lập”.
Ngày “hiệp thuơng thống nhất đất nước” 21-11-1975 (hoặc ngày 3-7-1976
khai sinh nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) cũng đều có thể là ngày độc
lập thật sự. Từ những ngày này, quốc tế nhìn nhận VN là một nước độc lập, thống
nhất và có chủ quyền toàn vẹn.
Cho dầu ngày nào, đảng CSVN cũng lãnh đạo VN một cách toàn diện không
chia sẻ. Vấn đề là ngày nào thì chủ quyền của VN tại HS và TS được khẳng định
và ngày nào thì VN nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.