Thế nào là "thoát Trung" ? Nếu là để thoát khỏi "ảnh
hưởng" của Trung Quốc thì, theo tôi, không hẳn chỉ là các vấn đề thuộc về
văn hóa, kinh tế hay "lời nguyền địa lý" như nhiều học giả VN đã và
đang bàn luận.
Thử lấy thí dụ Nhật Bản, Đài Loan và Đại Hàn. Văn hóa (nếu không nói là
văn minh) của ba nước này, trên nhiều mặt của xã hội hiện nay vẫn thể hiện sâu
đậm màu sắc của văn hóa Khổng giáo. Về chữ viết đã đành. Thử xem một vài phim
tình cảm xã hội của Đại Hàn, Đài Loan hay Nhật sản xuất. Ta thấy sao mà quen
thuộc quá. Nếu bỏ qua những đường nét, khung cảnh hiện đại của những thành phố
tiên tiến trong một quốc gia phát triển, thì ta tưởng đó là phim xã hội VN.
Khung cảnh trong gia đình của một người Đài Loan, Đại Hàn, thậm chí Nhật, đều
giống nhau, như Việt Nam (nhứt là VNCH trước kia). Đó là mô hình của một xã hội
ảnh hưởng văn hóa Khổng Mạnh. Dĩ nhiên là văn hóa này đã giảm thiểu nồng độ cực
đoan, đến từ việc du nhập văn hóa bao dung và tự do của Tây phương. Ta không
còn thấy cảnh thân phận người phụ nữ bị bó rọ trong "tam tòng, tứ
đức", cũng không thấy người đàn ông với những tín điều cứng nhắc "tam
cương, ngũ thường"...
Câu hỏi tiếp theo, là các nước Nhật, Hàn quốc, Đài Loan... về phương
diện địa lý, cũng có "lời nguyền" về "địa chính trị" không
khác lắm với Việt Nam. Vậy sao họ "cách biệt", nếu không nói là
"thoát và vượt Trung" hàng thế hệ về tiến bộ văn hóa, khoa học kỹ
thuật ?
Còn về vấn đề kinh tế, liên thuộc kinh tế giữa Trung Quốc với các nước
Nhật, Hàn, và Đài Loan hết sức là gắn bó keo son. TQ đã, đang và sẽ mãi là đối
tác quan trọng hàng đầu của ba nước này. TQ nhờ tư bản và kỹ thuật các nước này
đầu tư nên mà kế hoạch "hiện đại hóa" thành công. Các nước này nhờ TQ
mà kinh tế tăng trưởng đều đặng. Vậy họ có cần "thoát" lẫn nhau không
?
Các nước trên, về phương diện chữ viết, cũng như VN trước thời Pháp
thuộc, đến hôm nay cũng vẫn giữ nguyên tắc cơ bản chữ Hán. Nhưng VN, có lẽ vì
muốn "khác người", nhứt là phải khác (và vượt trội) VNCH, do đó có
khuynh hướng xóa bỏ các từ Việt gốc Hán. Một số kinh nghiệm sau 1975 với các
ngôn từ ngây ngô, như từ "xưởng đẻ" để thay thế cho "nhà hộ sinh".
Bệnh viện Từ Dũ ở Sài Gòn có lúc đổi tên là như vậy. Lại còn các từ như "máy
bay lên thẳng", "lính thủy đánh bộ", "giặc lái"...
Việc sử dụng từ gốc Hán không có gì phải mặc cảm. Người Nhật, người
Hàn... xem ra còn lệ thuộc vào chữ Hán còn hơn VN. Bên Châu Âu cũng vậy, chữ
viết các xứ này đều bắt nguồn từ Latin, Grec... Những từ khoa học các nước
Âu Mỹ hầu hết đều có gốc Latin hay Grec. Các nước này đâu thấy ai lên
tiếng than phiền là lệ thuộc, tỏ ý muốn "thoát Trung" hay "thoát
Grec (hay Latin)" đâu ?
Lệ thuộc hay không là do mình. Ta thấy một lượng lớn từ ngữ chuyên môn
(học thuật hay khoa học) Hán Việt bắt nguồn từ Nhật, do các học giả Nhật phát
minh ra. Chỉ số chất lượng về đời sống, về văn hóa, về kinh tế... trên mỗi con
người của Nhật, Hàn, Đài Loan hơn xa Trung quốc. Trong khi thành quả các tiến
bộ về văn hóa, khoa học, kỹ thuật... Trung Quốc cũng bị các nước Nhật, Hàn...
đã bỏ xa hàng vài thập niên. Như thế, ta thấy việc ảnh hưởng văn hóa Hán (chữ
viết) không hề ảnh hưởng lên việc phát triển quốc gia.
Như vậy, dựa trên hai yếu tố văn hóa và kinh tế để "thoát Trung",
(như các học giả VN đã và đang hô hào) rõ ràng Nhật và Đại Hàn đang có khuynh
hướng ngược lại : "nhập Trung" thay vì "thoát Trung".
Nhưng quan hệ kinh tế hai bên Việt-Trung, số kim ngạch trao đổi hai bên
cán cân luôn thặng dư về phía TQ. Việc thâm thủng này ngày mỗi tăng. Điều quan
trọng là quan hệ kinh tế giữa VN và TQ, trong chừng mực, là quan hệ "thực
dân – thuộc địa về kinh tế". Nếu đọc lại các bản tuyên bố chung của hai
bên được công bố gần đây, ta thấy VN đã nhượng cho TQ quá nhiều đặc quyền, đến
đỗi các việc này có thể đe dọa nền độc lập của quốc gia. Không nói quá, mọi
huyết mạch của kinh tế VN hiện nay đều do TQ kiểm soát.
Vì vậy, theo tôi, thoát Trung hay không là một vấn đề "chiến
lược" chứ không hẵn là kinh tế hay văn hóa.
Một lý do thường thấy nhiều người VN nại ra, ngại khi quay lưng lại với
Trung quốc, là vấn đề "địa chiến lược", nước xa không cứu được
lửa gần.
Ta thấy các nước như Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Phi… (nếu không nói Đài
Loan) đều ở kế "vách" với TQ, nhưng họ đâu sợ TQ. Các nước này, phần
lớn, là các nước dân chủ, thịnh vượng.
Để xóa bỏ nỗi ám ảnh (chính đáng) "nước xa không cứu được lửa gần"
của một số người VN hiện nay, ta cần nhắc lại một số điều cơ bản của các lý
thuyết về địa chiến lược (mà lãnh đạo TQ bị ảnh hưởng).
Theo tôi, lý thuyết "Địa Chiến lược – Không gian sinh tồn"
của Friedrich Ratzel (xuất bản năm 1902) có ảnh hưởng sâu sắc lên các lớp lãnh
đạo (then chốt) của TQ, làm thay đổi bộ mặt của nước này, đó là : Tưởng
Giới Thạch, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.
Bảy định luật của thuyết này là :
1. Không gian (sinh tồn) của một dân tộc được mở rộng đồng thời với văn
minh của dân tộc đó. Một dân tộc có nền văn minh tiến bộ sẽ đồng hóa các dân
tộc kém văn minh hơn.
2. Lãnh thổ quốc gia sẽ phát triển theo tỉ lệ thuận với sức mạnh kinh
tế và đội ngũ thương buôn của quốc gia cũng như chủ thuyết phát triển quốc gia.
Việc bành trướng vì thế chỉ tùy thuộc vào ý chí và phương tiện.
3. Việc bành trướng của cường quốc được thực hiện qua phương cách "hấp
thụ và tiêu hóa" các nước nhỏ.
4. Đường biên giới quốc gia không xác định (biên giới linh động - frontière
vivante). Biên giới xác định chỉ có giá trị tạm thời, chỉ để đánh dấu giữa hai
giai đoạn bành trướng.
5. Trong quá trình bành trướng, lãnh thổ (bây giờ là biển) là mục tiêu
chiếm hữu.
6. Các quốc gia yếu kém ở kế cận là mục tiêu bành trướng. Sự bành
trướng của cường quốc không thể tiến triển nếu quốc gia lân bang cũng là cường
quốc.
7. Hiện tượng bành trướng có khuynh hướng lan rộng do việc tranh dành
lãnh thổ của các quốc gia.
Bảy định luật của Ratzel đã hoàn toàn chứng nghiệm cho dân tộc Hán từ
lập quốc đến ngày hôm nay.
Định luật 1 : Nền văn minh Hán Tộc đã đồng hóa tất cả các dân tộc khác,
kể các các dân tộc dũng mãnh đã chiếm hữu và trị vì Trung Quốc. Lúc đầu lập
quốc, dân tộc Hán chỉ có một vùng đất nhỏ, nhưng sau đó bành trướng ra, đồng
hóa các dân tộc chung quanh. Văn hóa các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Liêu, Kim…
đã không còn dấu vết ở Trung Quốc.
Định luật 2 : Hiện đang thích ứng cho tình trạng TQ hiện nay. Sự
vượt trội về kinh tế, cho phép nước này hiện đại hóa quân đội. Những hành vi
khẳng định chủ quyền của TQ ở biển Đông, hay lên tiếng tranh chấp với Nhật ở
quần đảo Senkaku, cho thấy ý chí của nước này.
Định luật 3 : Định luật này cùng với định luật 1 đã được dân tộc Hán áp
dụng từ thời mới lập quốc và còn đang tiếp tục cho đến hôm nay. Dân tộc Hán
luôn bành trướng và tiêu diệt (hay Hán hóa) tất cả các dân tộc khác. Hiện nay
việc đồng hóa đang được thực hiện ráo riết tại Tây Tạng.
Định luật 5 cho thấy vẫn chưa lỗi thời, TQ đặt ra mục tiêu chinh phục
Biển Đông (Hoàng Sa và Trường Sa) đồng thời dành lại quần đảo Điếu Ngư
(Senkaku). Nhưng định luật này cần cập nhật thêm, vì chủ đích của việc chinh
phục là vùng biển, qua hai mặt: chiếm hữu và xây dựng các đảo nhỏ ở HS và TS thành
một "bức trường thành" nhằm mục đích phòng vệ lục địa, sau đó là tài
nguyên.
Định luật 6 phản ảnh rõ rệt thái độ bành trướng của Trung Quốc ngày hôm
nay : VN và Phi, hai nước yếu, nằm trong tầm nhắm của TQ. Trung Quốc không bao
giờ muốn thấy một Việt Nam giàu mạnh. Một nước Việt Nam giàu, mạnh sẽ ngăn cản
sức bành trướng của Trung Quốc. TQ đã sử dụng nhuần nhuyễn "quyền lực
mềm" để kiểm soát VN, qua các mặt: ý thức hệ chính trị, văn hóa và kinh
tế. Ta thấy trên thực tế, đảng CSVN là một bộ phận của đảng CSTQ. Về văn hóa,
phim ảnh, sách vở... của TQ thống lĩnh trên các chương trình truyền hình VN.
Người VN thuộc sử TQ hơn cả người TQ. Còn về kinh tế, hàng hóa TQ tràn ngập thị
trường. Hàng hóa TQ len lõi nhập lậu vào VN, khiến nền công kỹ nghệ tư nhân VN
chết đứng. Ngoài ra, các công trình xây dựng ở VN hiện nay hầu hết đều do nhà
thầu TQ phụ trách. Nhìn thành quả đường xe điện ở Hà Nội, với đường rầy uống
lượn nhấp nhô như "rồng", ta thấy ngay sự buông thả, vô trách nhiệm
của lãnh đạo VN. Đó cũng là cách áp dụng uyển chuyển của lý thuyết "không
gian sinh tồn", biến VN thành một chư hầu kinh tế.
Từ định luật 6, ta thấy cuộc chiến giữa TQ và Nhật chắn chắn sẽ xảy ra.
TQ không thể trở thành đại cường nếu có nước Nhật mạnh ở kế bên (và ngược lại).
Định luật 7 cho thấy có nhiều điều cần điều chỉnh lại. Đất đai không
còn là mục tiêu tranh chấp mà là việc tranh dành vùng biển, tranh dành thị
trường, vùng ảnh hưởng. Ngoài ra là những xung đột giữa các nền văn minh (Thiên
chúa - Hồi giáo) như hiện nay (theo thuyết của Samuel P. Huntington).
Theo tôi, quan trọng nhất trong các định luật trên là định luật 6. "Thoát
Trung" là thoát lệ thuộc chính trị,
thoát u mê ý thức hệ, thoát mù quáng tình đồng chí anh em, thoát cám dỗ "4
tốt 16 chữ vàng"...
Thoát ra được hay không là do lãnh đạo VN có bản lĩnh chính trị, lòng
yêu nước, tính can đảm và ý chí dám hy sinh (quyền lợi bản thân và đảng phái) hay
không.
Ta thấy định luật 6 chứng nghiệm cho các nước Nam Mỹ. Do gần với nước
Mỹ, vì lý do "sinh tồn" của nước Mỹ, các nước này phải là là những
nước nghèo (hay chỉ mới phát triển). (Ngoại trừ Canada, vì có cùng văn hóa và
lý tưởng với Mỹ).
Trong khi những nước Nhật, Đại Hàn, Đài loan... là những nước kế cận
TQ, mà TQ là địch thủ tiềm tàng của Mỹ, do đó bằng mọi cách Mỹ phải giúp các
nước này để họ luôn giàu và mạnh hơn TQ (để không ngả về TQ). Điều này cũng
đúng cho các nước Tây Âu trong thời chiến tranh lạnh, để các nước này có khả năng
chống lại Liên Xô.
Vì thế, ở kế cận TQ không hẳn là điều xấu. Cũng như ở kế cận nước Mỹ
chưa chắc là điều tốt. Nếu Nhật, Đại Hàn, Đài Loan... do nhờ ở kế cận TQ mà
được Mỹ giúp phát triển đất nước giàu có, hùng mạnh, thì VN cũng có thể trở nên
giàu và mạnh như vậy.
Thoát Trung do đó là vấn đề thuộc phạm vi lựa chọn: lựa chọn đồng minh,
lựa chọn "ý thức hệ chính trị". Đó cũng là tầm nhìn "chiến lược"
của lãnh đạo, chứ không phải là văn hóa hay kinh tế.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.