Tranh chấp biển Đông ngày càng thêm phức tạp. Thủ đoạn của
Trung Quốc, một mặt dùng kinh tế để chi phối nhằm chia rẽ nội bộ các nước ASEAN,
tạo ý kiến đa số cho phương thức không « quốc tế hóa » tranh chấp
biển Đông, cô lập hai nước Việt Nam và Phi. Mặt khác, Trung Quốc nỗ lực thực thi
quyền hành sử chủ quyền (effectivité) tại các đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa
đã chiếm của Việt Nam, cũng như trên vùng biển Đông, với tham vọng tạo ra một
thế « đã rồi » về pháp lý cho các nước có tranh chấp trong khu vực.
Những ngày gần đây Trung Quốc tiến thêm một bước như để
khẳng định quyền tài phán của mình tại vùng biển Đông bằng cách cho in hình bản
đồ chữ U chín đoạn lên hộ chiếu điện tử kiểu mới để cấp cho kiều dân của họ. Việc
này gây khó xử cho các nước có tranh chấp như VN, Phi. Quyết định cho hay không
cho nhưng người mang hộ chiếu này nhập cảnh vào VN (và Phi) đều có thể tạo
những hậu quả khó đoán về các mặt chính trị, ngoại giao và kinh tế.
Nguồn gốc của bản đồ chữ U chín gạch có nhiều điểm không minh bạch.
Trên phương diện hành chánh và quốc tế công pháp, tháng 7 năm 2006, nhà nước
Trung Quốc đã công bố, trong nước cũng như trước quốc tế, bộ bản đồ hành chính gồm có các bản đồ sau : Trung
Quốc Chính Khu 中国政区, Trung Quốc Địa
Thế 中国地势, Trung Quốc Thủy Hệ 中国水系 và Trung Quốc Giao Thông 中国交通. Việc
công bố này nhằm giới thiệu cho các nước
trên thế giới địa lý nhân văn, địa lý kinh tế cũng như các vùng lãnh thổ, lãnh
hải của Trung Quốc. Bản đồ « Trung Quốc Chính Khu » bao gồm hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa đồng thời vùng biển chung quanh được vẽ bằng chín đoạn
hình chữ U. Bản đồ này cũng không quên bao gồm Đài Loan, Tây Tạng cũng như các
vùng có tranh chấp với Ấn Độ vào lãnh thổ TQ.
Sau khi bộ bản đồ công bố, hầu hết các tấm bản đồ do TQ xuất bản đều có
vẽ đường chín đoạn hình chữ U, với ghi chú Hoàng Sa và Trường Sa thuộc TQ. Và
cũng kể từ đó phía Trung Quốc đơn phương mở mặt trận truyền thông để tuyên truyền
ra quốc tế về chủ quyền của của họ tại biển Đông.
Trong các lớp dạy Hoa ngữ của các trường trung học hay đại học tại các
nước Châu Âu, bản đồ Trung Quốc Chính Khu luôn được các giáo sư người Hoa treo
trong các lớp học.
Các tài liệu nghiên cứu của các học giả TQ đều có hình bản đồ Trung
Quốc Chính Khu. Sự việc gần đây, National Geographic Hoa Kỳ đã bị thuyết phục, ghi
chú trên các bản đồ HS và TS thuộc TQ. Các tạp chí khoa học lừng danh quốc tế
như tờ «Nature », « Science »… đã công bố bài của học giả TQ có
đính kèm tấm bản đồ Trung Quốc Chính Khu mặc dầu các tấm bản đồ này không liên
quan gì đến chủ đề nghiên cứu… Các sự việc này đã tạo ra một cuộc tranh cãi
giữa các học giả VN và các tạp chí quốc tế liên hệ. Rốt cục tính hợp lý của
khoa học được thiết lập vì một tạp chí khoa học, hay một cơ quan địa dư quốc
tế, không thể đăng các dữ kiện nặng về tuyên truyền, hay các dữ kiện khoa học
không kiểm chứng.
Nhưng hình như dư luận quốc tế chỉ biết đến tấm bản đồ chín đoạn chữ U của
Trung Quốc qua công hàm phản đối các hồ sơ « Thềm lục địa mở rộng »
của Việt Nam và Mã Lai tháng 5 năm 2009.
Việc cho in hình bản đồ « Trung Quốc Chính Khu » trên hộ
chiếu điện tử cũng nằm trong chiến dịch tuyên truyền, nhưng tầm lợi hại của nó
về mặt pháp lý không thể xem thường.
Tin tức từ BBC,
Giáo sư môn quan hệ quốc tế Đại học Nhân dân, ông Thời Ân Hoằng, cho
rằng quyết định in hình bản đồ này là do lãnh đạo cấp bộ đưa ra,
chứ "không phải từ cấp lãnh đạo cao nhất".
Trên quan điểm quốc tế công pháp, các bộ Nội Vụ (hay bộ Công An), bộ
Ngoại giao là cơ quan có đủ thẩm quyền về các vấn đề thuộc về chiếu khán và
kiều dân. Nhận định của GS Thời sẽ là không hợp cách nếu nhận định trên có ý
nghĩa : vì hộ chiếu này do cấp bộ đưa ra (chứ không phải do lãnh đạo cấp
cao) nên không có giá trị pháp lý.
Điều cần phải xem xét là hình thức của tấm bản đồ in trên hộ chiếu của
Trung Quốc có được xem như là một « tuyên bố đơn phương » về lãnh thổ
của nước này hay không ? Việc này sẽ đặt lại vấn đề, nếu các nước khác
đóng dấu cho nhập cảnh một cách bình thường như không có việc gì xảy ra đối với
các công dân TQ mang hộ chiếu này, có thể suy diễn rằng các nước đó mặc nhiên
chấp nhận « tuyên bố đơn phương » này của TQ hay không ?
Phía VN, bộ Ngoại giao gởi công hàm phản đối và yêu cầu phía TQ thâu
hồi các hộ chiếu này.
Nhưng phản ứng của phía Ấn Độ thì dữ dội « miếng trả miếng »,
cho đóng dấu in hình bản đồ Ấn Độ lên các tấm hộ chiếu này, trong đó các vùng
tranh chấp thì thuộc về Ấn Độ.
Mới đây, tin tức trong nước đăng từ BBC
cho biết, để trả đũa, các đồn công an biên phòng VN tại Lào Cai và Móng Cái
đóng dấu « hủy » trên các hộ chiếu này.
Trên phương diện công pháp quốc tế, nếu hành vi này đến từ quyết định
cá nhân của các viên chức địa phương thì sẽ không có giá trị pháp lý. (Nhưng
các hành động đơn phương của cá nhân có thể đưa đến các trục trặc ngoại giao
hay các phản ứng trả đũa về kinh tế, chính trị, thậm chí xung đột quân sự mà
phía VN không có phương cách hữu hiệu chống trả lại.)
Tuy vậy, các hành vi thể hiện việc « hành sử quyền chủ
quyền » của TQ có thể nhắm đến 2 điều :1/ chuẩn bị hồ sơ pháp lý cho
một phiên tòa (hay trọng tài) phân xử trong tương lai và 2/ tạo một cái bẫy đển
các nước liên quan (VN và Phi) nhìn nhận có tranh chấp tại các khu vực không có
tranh chấp.
Điểm 1, trong các vụ tranh chấp lãnh thổ, hành vi hành sử chủ quyền của
quốc gia luôn là một bằng chứng thuyết phục nhứt chứng minh quốc gia này
có chủ quyền tại vùng lãnh thổ đó.
Trong vụ án xử tranh chấp giữa Mã Lai và Singapour về chủ
quyền đảo Pedra Branca, Tòa án Công lý Quốc tế (CIJ) ngày 23-5-2008 là một bản
án mẫu để so sánh giá trị pháp lý của « danh nghĩa chủ quyền lịch sử »
với « hành vi hành sử chủ quyền » tại một vùng lãnh thổ.
Mã Lai đã chứng minh, và được Tòa nhìn nhận, nước này có
danh nghĩa chủ quyền lịch sử tại các đảo tranh chấp. Nhưng yếu tố đã khiến Mã
Lai bị mất chủ quyền lịch sử là trong một thời gian dài, Mã Lai (và các quốc
gia tiền nhiệm) đã im lặng trước những hành vi thể hiện quyền tài phán của
Singapour tại đảo tranh chấp. Mặt khác, tấm « công hàm » viết năm
1953 của bộ trưởng ngoại giao lâm thời của vương quốc Johor (nhà nước tiền
nhiệm của Mã Lai) đã phủ nhận chủ quyền của tiểu quốc Johor tại đảo Pedra
Branca.
Tòa quyết định Singapour tạo được danh nghĩa chủ quyền tại
đảo Pedra Branca do việc chiếm hữu hòa bình và lâu dài trên lãnh thổ này (effectivité)
cũng như thái độ đồng thuận (acquiescement) của Mã Lai.
Điểm hai, phía TQ có lẽ tạo ra một hỏa mù chung quanh ý
nghĩa của tấm bản đồ chữ U chín gạch để biến có tranh chấp một vùng biển không
tranh chấp.
Hiện nay, tùy thời kỳ và tùy lúc, phía TQ đã viện các lý lẽ như sau để chứng
minh quyền chủ quyền của họ : 1/ vùng
biển giới hạn bởi bản đồ 9 gạch chữ U là vùng « biển lịch sử », 2/ TQ
có chủ quyền các đảo HS và TS và vùng nước chung quanh, và 3/ TQ có
« quyền lịch sử » trong vùng biển giới hạn vẽ trên tấm bản đồ.
Về giá trị pháp lý, theo tập quán quốc tế, các bản đồ, như
bản đồ chữ U chín đoạn, tự nó không có giá trị pháp lý.
Vụ tranh chấp
Burkina-Faso
– Mali được đưa ra
Tòa CIJ ngày 22-12-1986, Tòa cho rằng « Trong vấn đề phân định biên giới
hay tranh chấp lãnh thổ quốc tế, các tấm bản đồ chỉ đơn giản là các dữ kiện, với
ít nhiều chính xác tùy theo trường hợp. Chúng không bao giờ, chỉ qua chúng và bằng
sự hiện hữu của chúng, mà tạo ra một danh nghĩa chủ quyền lãnh thổ, tức là một
tài liệu theo đó Công pháp quốc tế ban cho một giá trị pháp lý tự tại nhằm để
thiết lập những quyền hạn về lãnh thổ ».
Vì vậy tranh
luận về giá trị « bản đồ » với TQ là sai lầm.
Nhưng ta
không thể loại bỏ trường hợp, nếu một tấm bản đồ vẽ sai, nhưng đã được in đi in
lại nhiều lần, kể cả do bên liên quan in ra, thì nó có thể được xem như là sự đồng
thuận (acquiescement) của bên liên quan kia về nội dung của tấm bản đồ đó. Vụ xử
của CIJ về tranh chấp Thái-Miên về ngôi đền Preah Vihear cho ta kinh nghiệm
này.
Chủ ý của hộ
chiếu cũng nhắm vào việc này.
Yếu tố 1,
vùng « biển lịch sử », phía TQ không thuyết phục được vì luật quốc tế
không có qui định về « biển lịch sử ».
Yếu tố 2,
phía TQ cần chứng minh các đảo thuộc HS và TS thuộc chủ quyền của TQ mà việc
này không dễ dàng vì phải đối phó với hồ sơ vững chắc của phía VN. Ngoài ra còn
phải thuyết phục các nước trong khu vực về hiệu quả 200 hải lý ZEE dành cho các
đảo thuộc HS và TS.
Yếu tố 3, hiện
nay TQ vịn vào « quyền lịch sử » để đòi chủ quyền vùng biển Đông và
các đảo Điếu Ngư. Dư luận quốc tế hiện nay phê phán « quyền lịch sử -
droit historique » của TQ đang thách thức « luật quốc tế - droit
international ».
Công pháp quốc
tế không nhìn nhận « quyền lịch sử ».
Vì vậy chủ ý
các việc tạo căng thẳng của TQ trong những năm tháng gần đây là tạo một ấn tượng
« có tranh chấp » ở một vùng « không tranh chấp », như bãi
Tư Chính của VN.
Vụ xử tranh
chấp Ấn Độ và Pakistan về khu vực Rann Of Kutch cho ta thấy lợi hại của lập trường
các phía về vùng tranh chấp. Phía Ấn cho rằng không hề có tranh chấp ở khu vực
Rann Of Kutch, trong khi phía Pakistan đòi phân nửa vùng này. Kết quả phân xử, Ấn
được 90% vùng tranh chấp.
Phía Ấn có đầy đủ hồ sơ chứng minh chủ quyền, nhưng nếu
hồ sơ nước này khai rằng « có tranh chấp ở vùng Rann Of Kutch » thì kết
quả sẽ chưa chắc là như vậy.
Các kế sách Tôn Tử, Ngô Tử… cho thấy nghệ thuật dùng mưu của người
Hoa. Nhiều lãnh đạo (trước kia) và học giả (hiện nay) của VN đã sụp vào bẫy
này. Đến nay người viết này vẫn không hiểu lý do nào, lãnh đạo VN,
cũng như các học giả VN, cho rằng có tranh chấp tại vùng biển Trường Sa ?
Học giả VN muốn chia đôi với TQ khu vực này thì
tiếp tục tuyên bố như vậy. TQ sẽ rất mang ơn.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.