Bài viết « công nhận
VNCH vì biển đảo ngày nay » trên BBC
có nhiều điều cần được thảo luận lại.
1/ « Công nhận » VNCH ở
cái gì ?
Theo nội dung bài viết, công nhận ở
đây là công nhận « VNCH từng là một quốc gia ». Cũng theo các tác giả :
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam « là một quốc gia ».
Việc « công nhận quốc
gia » là quan trọng trong quan hệ quốc tế, vì nó xác định sự hiện hữu (tư
cách pháp nhân) một quốc gia trên sân khấu quốc tế. Thủ tục công nhận thể hiện
bằng việc « thiết lập bang giao », qua các việc trao đổi lãnh sự, ký
kết các hiệp ước, hay bằng một tuyên bố đơn phương giữa các quốc gia. Việc công
nhận quốc gia là các bên chấp nhận các yếu tố đặc thù về công dân, về lãnh thổ
và về chính phủ của các bên.
Trên tinh thần này thì nhà nước
VNDCCH, tức nhà nước tiền nhiệm của CHXHCNVN, chưa bao giờ « công
nhận » VNCH (chưa nói đến việc VNCH có là « quốc gia » hay không).
Hai miền Nam, Bắc là hai đối thủ thù nghịch nhau trong cuộc nội chiến 54-75, chưa
bao giờ có thiết lập quan hệ ngoại giao mà chỉ có đối đầu bằng súng đạn.
Mặt khác, nước CHXHCNVN cũng không
thể bây giờ mới « công nhận » VNCH là một quốc gia. Đơn giản vì người
ta không thể công nhận cái đã không còn hiện hữu.
2/ Vấn đề « lãnh thổ » và
« quốc gia » :
Các tác giả cho rằng :
« chiến
lược khả thi hơn cho lập luận pháp lý của Việt Nam cần dựa trên điểm then chốt
là từ năm 1958 đến 1976 có hai quốc gia khác nhau trên đất nước Việt
Nam. »
Có phải từ 1958 đến 1976 có hai
quốc gia khác nhau trên đất nước VN ?
Hiệp định Genève 1954 qui định nước
VN là một nước độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Sông Bến Hải (vĩ
tuyến 17°) chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời, không phải là đường ranh giới về
lãnh thổ hay chính trị.
Hiệp định Genève qui định một nước
VN duy nhứt, phân chia thành hai vùng lãnh thổ, mỗi bên quản lý vùng đất của
mình. Hiệp định không hề nói đến « hai quốc gia ».
Cũng không thấy trong khoản thời
gian 54-75, hai bên VNDCCH và VNCH có ý định trở thành quốc gia « độc
lập ».
Theo tập quán quốc tế, một vùng
lãnh thổ có thể trở thành một « quốc gia », nếu hội đủ một số điều
kiện. Tiên quyết là ý chí của dân chúng sống trong vùng lãnh thổ này có muốn trở
thành một quốc gia độc lập hay không ? (Nguyên tắc dân tộc tự
quyết).
Có nhiều thí dụ về sự thành hình
quốc gia từ một vùng lãnh thổ. Trường hợp quốc gia ly khai thành quốc gia mới
(Tiệp và Khắc), hay trường hợp các nước trong Liên Xô cũ, là các vùng lãnh thổ
được độc lập do ý nguyện của người dân. Đài Loan, vùng lãnh thổ này
cũng muốn trở thành quốc gia độc lập dưới thời Trần Thủy Biển nhưng không
thành. (Việc này khiến TQ đặt ra luật « chống ly khai »). Hay dân tộc
Palestine hiện nay đang tranh đấu để được nhìn nhận là một quốc gia v.v… là các
thí dụ cụ thể về sự thành hình của quốc gia.
Dân chúng hai miền Nam, Bắc VN chưa
bao giờ bày tỏ ý muốn để trở thành một « quốc gia » độc lập. Thái
độ của hai chính phủ luôn tôn trọng nguyên tắc « một quốc gia ». Thí
dụ : VNDCCH không gia nhập các định chế quốc tế thuộc LHQ mà phía VNCH đã
gia nhập. Cộng đồng quốc tế cũng tôn trọng nguyên tắc này : quốc gia công nhận miền này thì không công nhận miền kia tại LHQ.
Các tác giả dẫn trường hợp Nam và
Bắc Hàn, cho rằng hai nước này là hai « quốc gia ». Điều này không
đúng.
Hai miền Nam và Bắc Triều Tiên cùng
gia nhập LHQ cuối năm 1991, theo đề nghị của Gorbachev, vì cục diện thế giới thay đổi. Cộng đồng quốc tế có thói quen xem hai miền là hai
« quốc gia », nhưng thực tế không phải vậy. Hai xứ này cùng gia nhập
LHQ trên tinh thần của Kết ước « Hòa giải
và hợp tác » ký giữa hai miền ngày 13-12-1991. Lời mở đầu của kết ước
khẳng định các quan hệ hai bên không phải là quan hệ giữa « quốc
gia », mà chỉ là một quan hệ tạm thời trong tiến trình thống nhứt đất
nước.
Việc có phải là « quốc
gia » hay không là một vấn đề thuộc về pháp lý, là « nguyện
vọng » của dân chúng sinh sống trong vùng lãnh thổ cũng như sự nhìn nhận
của cộng đồng quốc tế.
Thực tế chỉ có một quốc gia VN
nhưng có hai cách nhìn: cách nhìn cộng sản VNDCCH là nhà nước chính thống.
Cách nhìn tư bản tự do VNCH là nhà nước chính thống.
Không thể có « hai quốc gia
VN » bằng việc « tự lựa chọn » hay tự « công nhận »
lẫn nhau như các tác giả nhận định.
Một vấn đề nhỏ khác về từ
ngữ : Các tác giả cho rằng hiệp định Genève đã tạo nên « một lãnh
thổ, hai quốc gia ».
Người ta sử dụng từ « lãnh
thổ » để chỉ một cộng đồng dân tộc sinh sống trên một vùng đất (lãnh thổ),
có nền kinh tế riêng, có « chính phủ » riêng nhưng không được công
nhận là « quốc gia ». Trường hợp Palestine hoặc Đài Loan, Hồng Kông
trong Tổ chức APEC, là các thí dụ.
Không ai nói « một lãnh thổ,
hai quốc gia » mà chỉ nói « một quốc gia, hai vùng lãnh thổ ».
3/ Phải chăng « Hà
Nội đã công nhận rằng Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một quốc gia » ?
Không có bằng chứng nào
cho thấy việc « công nhận » này đã thể hiện. Nhưng có thể quốc tế đã
nhìn nhận sự hiện hữu hai « quốc gia » VNDCCH và CHMNVN. Việc này có
thể kiểm chứng qua việc cả hai bên VNDCCH và CHMNVN cùng được chấp nhận gia
nhập Tổ chức Y tế Quốc tế (OMS). Các định chế quốc tế thuộc LHQ,
như OMS, chỉ nhận thành viên có tư cách pháp nhân là « quốc gia ».
VNDCCH « công nhận »
CHMNVN là một « quốc gia », với những thủ tục ngoại giao cần thiết bắt
buộc, với việc quốc tế có thể nhìn nhận hai bên là « quốc gia », là
hai vấn đề hoàn toàn khác biệt.
4/ Về việc VNCH không chấp
nhận thực hiện tổng tuyển cử vào năm 1956 :
Sau hiệp định Genève 1954,
VN chia hai đất nước. Tháng 3 năm 1956 phía CS miền Bắc lên tiếng, qua đài phát
thanh Bắc Kinh, yêu cầu thực thi việc « thống nhứt đất nước » qua một
cuộc trưng cầu dân ý.
Cùng khoản thời gian, hai
nước Triều Tiên và Đức cũng đặt vấn đề « thống nhứt đất nước ». Phía
Tây Đức và Nam Hàn lên tiếng đề nghị « thống nhứt đất nước » bằng một
cuộc đầu phiếu tự do.
Các nước thuộc khối cộng
sản bác bỏ các đề nghị này ở Nam Hàn và Tây Đức nhưng lại ủng hộ ở Việt Nam.
Cuối cùng không có nước
nào thực hiện việc « thống nhứt đất nước » theo đường lối trưng cầu
dân ý.
Bởi vì, khi VN chia hai
đất nước, dân số miền Bắc là 13 triệu, miền Nam là 11 triệu. Chính quyền ông
Diệm từ chối vì thấy chắc thua (mặt khác chính quyền này không chỉ không ký mà
còn phản đối hiệp định Genève, do đó không bị nội dung hiệp định này ràng
buộc). Còn ở Đông Đức và Bắc Hàn, dân số phía CS kiểm soát ít hơn, do đó họ
phản đối.
Việc « trưng cầu dân
ý » trở thành một « dấu ngoặc » của lịch sử, không thể dẫn ra
đây để kết tội vì phía miền Nam mà việc chia đôi đất nước kéo dài. Người ta
cũng có thể đặt lại vấn đề vì sao miền Bắc đồng ý chia đôi đất nước ?
5/ Về hiệu công hàm 1953 của
tiểu quốc Johor trong vụ án tranh chấp chủ
quyền các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge giữa
hai nước Mã Lai và Singapour :
Tại tòa, việc giải thích
hiệu lực công hàm 1953 của Johor chiếm một thời lượng lớn, từ đoạn 192 đến đoạn
230 trong bản ghi chép về phiên xử. Cần phải có một bài viết riêng mới có thể
nói hết các ý nghĩa pháp lý của công hàm. Vài đoạn quan trọng :
Đoạn 223 : « La
Cour en conclut que la réponse du Johor montre que, en 1953, celui-ci
considérait que la souveraineté sur Pedra Branca/Pulau Batu Puteh ne lui
appartenait pas » - Tòa kết luận, văn bản trả lời của Johor năm 1953 cho
thấy chủ quyền đảo Pedra Branca không thuộc về nước này.
Đây là yếu tố pháp lý quan
trọng, ảnh hưởng đến quyết định của Tòa.
Đoạn 275 : Kết luận của
Tòa. Tòa cho rằng công hàm « có tầm quan trọng quyết định ».
Các
tác giả viết :
“Công hàm 1953 không có hệ quả pháp lý mang
tính quyết định và không có tính chất ràng buộc cho Johor”
Là
không đúng với thực tế của phán quyết.
Có
ba ý
kiến khác nhau về một vấn đề trước Tòa : bên bị, bên nguyên và ý kiến của tòa.
Không thể trích dẫn ý kiến bên này mà bỏ qua các ý kiến khác như các tác giả đã
làm. Nếu muốn trích dẫn như vậy, hợp lý là trích dẫn ý kiến chung cuộc của Tòa.
7/
Công nhận VNCH hay kế thừa di sản VNCH ?
Thái độ nhìn nhận VNCH là một quốc gia của các
tác giả là một thiện ý cần được đón nhận. Đề nghị không nên thay đổi tên nước
trở lại VNDCCH cũng là một ý kiến đúng, trước đây nhiều người đã nói. Nhưng các thực thể chính trị VNDCCH, VNCH, CHMNVH
không phải là “quốc gia”, như qui định của Hiệp định Genève, cũng như lập
trường của các bên và thái độ của quốc tế thể hiện trong quá khứ. Gượng ép nhìn
nhận VNCH và VNDCCH là hai quốc gia sẽ làm thay đổi bản chất lịch sử của cuộc
chiến. Cuộc nội chiến của VN sẽ trở thành chiến tranh xâm lược của VNDCCH.
Người
ta không thể thay đổi quá khứ nhưng tương lai tùy thuộc vào việc làm của mình
hôm nay.
Nước
VN hiện nay không thể “công nhận” VNCH, nhưng có thể “kế thừa” di sản của nó.
Vấn đề là “kế thừa” như thế nào ? Bài viết ở
đây là một đề nghị.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.