lundi 15 avril 2013

Nhắc lại tranh chấp Thái-Miên về ngôi đền Preah Vihear.


Hai nước Thái Lan và Cam Bốt lại lần nữa ra Tòa án CIJ (Tòa án Công lý quốc tế - Cour International de Jutice) vào ngày 15-4 năm 2013 về vấn đề ngôi đền Preah Vihear. Đây không phải là một vụ xử thông thường mà Tòa chỉ giải thích lại nội dung của phán quyết 1962 theo yêu cầu của Cam Bốt. (Tòa CIJ đã xử vụ tranh chấp Preah Vihear từ năm 1962, theo đó ngôi đền thuộc chủ quyền của Cam Bốt).

Cam Bốt đã đệ đơn lên Tòa từ ngày 28-4-2011. Theo thông cáo báo chí của CIJ, phiên tòa sẽ kéo dài trong 4 ngày, từ 15-17-18-19 tháng 4 năm 2013. Nguyên nhân Cam Bốt yêu cầu Tòa giải thích lại phán quyết năm 1962 là vì phía Thái Lan cho rằng phán quyết này chỉ nói đến chủ quyền của ngôi đền mà không nói đến chủ quyền vùng đất chung quanh (diện tích 4,5 km² - xem bản đồ 3a). Trong khi đó phía Cam Bốt cho rằng Tòa đã tuyên án ngôi đền thuộc về nước này, dựa lên bản đồ phân định biên giới do Pháp thiết lập năm 1907, theo đó ngôi đền và vùng đất (mà Thái dành) đều thuộc về Cam Bốt (xem bản đồ 3a).

Tranh chấp « rẻo đất » này không phải chỉ bắt đầu từ khi ngôi đền này được UNESCO nhìn nhận là « di sản văn hóa của thế giới » năm 2008, mà nó đã bắt đầu ngay sau khi CIJ tuyên bố phán quyết. Quần chúng Thái Lan lúc đó đón nhận tin CIJ xử Cambogde thắng kiện với sự phẫn nộ. Bởi vì, vùng đất hữu ngạn sông Cửu Long, tức gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap (bao gồm khu vực ngôi đền) đã thuộc về Thái Lan, theo hiệp ước ký với Pháp ngày 15 tháng 6 năm 1867. Vùng đất này mất lại vào tay Pháp năm 1993, nhưng sau đó Thái lấy lại được trong thời gian Thế chiến II (1941) do dựa vào thế lực của Nhật. Sau khi Nhật thua trận, Thái phải trả lại vùng đất này năm 1946. Trong một mức độ nào đó, người Thái nghĩ rằng có quyền « lịch sử » đối với vùng này.

Rẻo đất tranh chấp rất quan trọng cho phía Cam Bốt vì ngôi đền tọa lạc trên cao, từ phía Cam Bốt không có đường lên vì là dốc thẳng đứng. Không có phần đất này thì phía Cam Bối không thể lên đền được. Trong khi giá trị của khu vực đất này đối với Thái Lan chỉ là tượng trưng, nặng về chính trị và thể diện hơn là giá trị kinh tế.
Để đoán kết quả vụ xử thế nào, ta có thể xét lại lịch sử tranh chấp giữa hai bên cùng hồ sơ vụ án CIJ 1962.

1. Ngôi đền Preah Vihear :

Ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên mỏm núi cao 625 mét, nhìn xuống bình nguyên Kampuchia, thuộc rặng núi Dang Rek (là biên giới giữa hai nước Thái-Miên đã được phân định theo các hiệp ước Pháp-Thái 1904 và 1907 về phân định biên giới, sẽ nói bên dưới), tọa độ kinh độ 14°23’ 18° đông, vĩ độ 104°41’ 02° bắc, cách Nam Vang khoảng 400 km về hướng bắc và cách đền Angkor Vat khoảng 140 km về hướng đông-bắc. Khu vực đền Preah Vihear tập hợp nhiều kiến trúc, có diện tích khoảng 20 héc-ta, xây dựng theo chiều dài như hình 1a và 1b. Theo các nhà khảo cổ, ngôi đền được xây dựng, sau đó được tu bổ và sửa chữa, khoảng từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 12. Những ghi chú (bằng chữ Phạn và chữ Khmer) trên các tấm bia ở trong đền cho thấy các triều đại có đóng góp vào việc xây dựng và trùng tu là các triều đại Yacovaraman (889-910), Suryavarman I (1002-1049) và Suryavarman II (1112-1162). Đây là một di dản văn hóa lớn của nhân loại, được UNESCO công nhận từ năm 2008. Ngôi đền có kiến trúc đặc sắc văn minh Ấn Độ, thờ thần Shiva (Ấn Độ Giáo) sau trở thành chùa Phật giáo. Kiểu mẫu kiến trúc đền này được xem như là tiền thân của các kiến trúc được xây dựng hàng thế kỷ sau như ở Angkor Vat, là những thể hiện sự huy hoàng của nền văn minh Khmer. Hiện nay đền được gọi qua hai tên : tên Khmer là Preah Vihear, tên Thái là Khao Phra Viharn, cùng có nghĩa là « đền thờ thánh ». Đền thuộc tỉnh Preah Vihear (Kampuchia), tiếp giáp với tỉnh Sisaket (Thái Lan) phía đông bắc.

Từ phía Kampuchia, địa hình mỏm núi rất cheo leo, vách đá hình thẳng đứng, từ đây lên đền thiêng rất khó khăn, vì đường đi là một con đường hẹp, chênh vênh đẻo vào núi đá thành từng bậc thang, rất nguy hiểm. Về phía Thái Lan thì địa hình thoai thoải theo dốc lài, do đó từ phía Thái Lan lên đền thiêng rất dễ dàng. Từ 2008, sau khi ngôi đền được UNESCO công nhận là di sản văn hóa và lịch sử của nhân loại thì từ phía Kampuchia, một con đường làm bằng những bậc thang gỗ từ đồng bằng lên đến đền. Xem hình 2.

Preah Vihear 1

Hình 1a : Quần thể đền Preah Vihear.

Preah Vihear 1c

Hình 1b : quần thể Preah Vihear nhìn từ một góc khác.

Preah Vihear 1d

Hình 2 : đường dẫn bằng cầu thang gỗ, mới làm sau năm 2008, từ phía Kampuchia lên đền.

2/ Sơ lược lịch sử : Khmer dưới thời bảo hộ của Pháp.

Năm 1856 vua Ang Duong thỉnh cầu được sự bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực đối ngoại và đối nội.

Pháp đại diện Khmer ký kết hiệp ước đầu tiên với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, buộc Xiêm phải từ bỏ quyền « thuợng quốc » đối với Khmer (tương tự Hòa ước Thiên Tân giữa Pháp và nhà Thanh về Việt Nam năm 1885). Nhưng Pháp phải nhượng cho Xiêm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap.

Sau khi đặt được nền hành chánh thực dân tại Nam Kỳ và bảo hộ tại Bắc Kỳ, năm 1893, do nguyên nhân quân Xiêm vượt sông Cửu Long tiến chiếm đất Lào, Pháp đưa chiến thuyền uy hiếp Bangkok. Việc này đưa đến hòa ước Pháp-Xiêm ngày 3 tháng 10 năm 1893. Theo đó, ở phía Lào, Xiêm phải từ bỏ mọi tham vọng về lãnh thổ ở phía tả ngạn sông Cửu Long; phía Cambodge thì trả lại cho Khmer các tỉnh hữu ngạn sông Cửu Long, tức vùng lãnh thổ đã nhượng cho Thái Lan từ năm 1867. Hòa ước này cũng dự trù một công trình phân định biên giới giữa Thái và Đông Dương.

Tiếp nối hệ quả của hòa ước 1893, hai thỏa ước về biên giới ngày 7 tháng 10 năm 1902 và ngày 13 tháng giêng 1904 được ký kết. Việc cắm mốc được thực hiện trên thực địa năm 1907 qua một công ước phân định biên giới.

Đường biên giới khu vực ngôi đền Preah Vihear “là đường phân thủy của rặng núi Dang Rek”, tức đường phân chia lưu vực Biển Hồ và sông Mekong với lưu vực sông Nam Meun, theo như đồ tuyến đã được chấp nhận của ủy ban phân định ngày 16 tháng giêng năm 1907.

Một sơ đồ đường biên giới được mô tả ở trên được đính kèm theo đây (hình 3 và hình 3a).

Preah Vihear 3

Hình 3 : Bản đồ phân định đính kèm hiệp ước 16 tháng giêng năm 1907 do hai ủy ban « Bernard » và « Monguers » thực hiện từ 1903 đến 1907.

Preah Vihear 3a

Hình 3a : Khu vực ngôi đền Preah Vihear và đường biên giới trong khu vực được họa theo bản đồ đính kèm công ước.

Preah Vihear 2

Hình 4 : Góc bản đồ khu vực Preah Vihear, có ghi độ cao các chỏm núi. Khu đền được xây dựng ở đỉnh cao nhất.

Việc nhìn nhận đường biên giới, cũng như việc trả lại 3 tỉnh cho Cambodge, được hai bên khẳng định lại qua các hiệp ước Pháp-Xiêm ngày 14 tháng 2 năm 1925, hiệp ước Pháp-Xiêm về Đông Dương ngày 25 tháng 8 năm 1926 và hiệp ước hữu nghị Pháp-Xiêm ngày 7 tháng 12 năm 1937.

3/ Tranh chấp đền Preah Vihear

Năm 1937 Thái ký kết ước « liên minh » với Nhật được ký năm 1937. Quần chúng cũng như chính giới Xiêm, khai sinh một phong trào dân tộc chủ nghĩa, với tham vọng đòi lại những lãnh thổ đã « nhượng » cho Pháp theo các kết ước trước đó. Tên nước được đổi thành Thailande (1937. Thế chiến thứ II bùng nổ, tháng 10 năm 1940, Thái lên tiếng đòi lại toàn bộ lãnh thổ hai nước Lào và Cam Bốt. Tháng giêng năm 1941 bùng nổ cuộc chiến Pháp-Thái. Quân Thái thua trận, nhưng Nhật lên tiếng can thiệp và đóng vai trung gian, hai bên Pháp và Thái ký hiệp ước tại Tokyo ngày 9 tháng 5 năm 1941. Pháp phải nhượng cho Thái các tỉnh Battambang, Siemreap, Kompong Thom, Pursat và Strung Treng (thuộc Cam Bốt) cũng như vùng hữu ngạn sông Cửu Long (thuộc Lào). Nhưng sau đó Nhật đầu hàng, Thái Lan phải trả lại cho Pháp những vùng đất đã chiếm trong thời gian Thế chiến thứ II, theo thỏa ước Pháp-Thái ký tại Washington ngày 17 tháng 12 năm 1946.

Phía Thái Lan bắt buộc phải trả lại đất các tỉnh đã chiếm năm 1941 cho Khmer, nhưng tại khu vực ngôi đền Preah Vihear thì quân Thái vẫn không chịu rút đi, mặc dầu bộ ngoại giao Pháp có can thiệp hai lần vào năm 1949. Cam Bốt được Pháp trả độc lập ngày 3 tháng 12 năm 1953. Đầu năm 1954, bộ ngoại giao Cam Bốt bắt đầu gởi công văn chính thức phản đối Thái Lan về vấn đề ngôi đền. Việc tranh chấp hai bên Thái-Miên về chủ quyền ngôi đền trở nên gay gắt hơn vào năm 1955 khi phía Khmer tuyên bố trung lập. Phía Thái cho rằng quyết định của Khmer đã trở thành một đe dọa an ninh của Thái. Biên giới Thái vì thế được quân sự hóa.

Tháng 3 năm 1956, Sihanouk đề nghị đưa việc tranh chấp ngôi đền trước một trọng tài quốc tế.

4/ Trọng tài quốc tế :

Rốt cục vấn đề tranh chấp được phía Cambodge đưa đưa ra Tòa án Quốc tế ngày 6 tháng 10 năm 1959. Hồ sơ có mã số CIJ 65.
Nguyên văn vụ xử ngôi đền Preah Vihear ngày 15 tháng 6 năm 1962 được ghi lại, những đoạn quan trọng, như sau (nguồn : CIJ) :

a) Với 9 phiếu trên 3, Tòa phán rằng ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của Cambodge. Vì vậy Thái Lan phải cho rút đi các lực lượng quân sự hay cảnh sát, hay những người canh gác đã được bố trí tại ngôi đền, hay ở các khu vực chung quanh, thuộc lãnh thổ Cambodge.

b) Với 7 phiếu trên 5, Tòa phán rằng Thái Lan phải trả lại cho Cambodge những bức tượng, các bia đá, những bộ phận rời thuộc về ngôi đền, những kiểu mẫu bằng sa thạch và đồ gốm cổ, đã có thể bị phía nhà chức trách Thái lấy ra khỏi đền, hay khu vực đền, trong lúc ngôi đền bị Thái chiếm đóng từ năm 1954.

CIJ đã lý luận như sau :

Ngôi đền cổ Preah Vihear ở trong tình trạng hoang phế, tọa lạc trên một mỏm núi thuộc rặng Dangrek mà rặng núi này là biên giới giữa hai nước Thái Lan và Cambodge. Mối tranh chấp có nguyên nhân từ việc phân định biên giới bắt đầu từ năm 1904 đến năm 1908 giữa nước Pháp, đại diện Đông Dương, và nước Xiêm. Việc phân định này chiếu theo công ước ngày 13 tháng 2 năm 1904. Công ước này đã thiết lập một cách tổng quát một đường biên giới, đường này sẽ được xác định chính xác bởi một ủy ban phân định hỗn hợp Pháp-Thái.

Ở khu vực có ngôi đền Preah Vihear, đường biên giới phải theo đường phân thủy. Theo thỏa thuận từ buổi họp ngày 2 tháng 12 năm 1906, để xác định đường phân thủy, ủy ban hỗn hợp phải tìm hiểu trên thực địa, qua một cuộc hành trình đi dọc theo đường sống núi của rặng Dangrek. Một trắc địa viên người Pháp cùng tháp tùng để ghi nhận địa hình toàn vùng phía đông của rặng núi. Điều không nghi ngờ là các vị chủ tịch của các ủy ban Pháp và Xiêm đã làm cuộc hành trình này và những người này cũng đã có thể thăm viếng ngôi đền. Vào các tháng giêng – tháng hai năm 1907, ủy ban Pháp đã báo cáo lên chính phủ của họ rằng đường biên giới đã hoàn toàn được phân định. Như thế đường biên giới đã được xác định, cho dầu không tìm thấy dấu vết nào về một quyết định, hay một ghi nhận bất kỳ liên quan rặng núi Dangrek trong các biên bản được thành lập sau ngày 2 tháng 12 năm 1906. Lúc ủy ban nhóm họp để kết thúc công trình phân giới, mọi người đã chỉ tập trung vào kết luận về một hiệp ước khác, liên quan biên giới Pháp-Xiêm, tức hiệp ước ngày 23 tháng 3 năm 1907.

Việc cuối cùng của công trình phân định là việc làm bản đồ. Nhà nước Xiêm, vì không có phương tiện lỷ thuật, đã yêu cầu nhân sự phía Pháp để thành lập các bản đồ vùng biên giới. Các bản đồ đã được một ê kíp người Pháp hoàn tất vào xuân năm 1907, trong đó có nhiều người thuộc ủy ban hỗn hợp. Ê kíp này đã thường xuyên quan hệ với nhà nước Xiêm trong năm 1908. Một tấm bản đồ của ê kíp này (sau khi thiết lập) đã giao cho nhà nước Xiêm, theo đó đền Preah Vihear nằm trên lãnh thổ Khmer. Tấm bản đồ này cũng tài liệu I (hình 3 và hình 3a) đính kèm hồ sơ, đã được phía Cambodge làm căn bản để đòi hỏi chủ quyền ngôi đền. Ở điểm này phía Thái phản biện, vì bản đồ không do ủy ban hỗn hợp thiết lập, do đó nó không có giá trị bắt buộc ; tấm bản đồ vẽ đường biên giới không phù hợp với đường phân thủy, mà đáng lẽ đường (phân thủy) này để dành ngôi đền về phía Thái ; tấm bản đồ này cũng chưa hề được phía Thái công nhận, hoặc giả nếu có, là do phía Thái Lan tưởng rằng đường biên giới đã vẽ đúng theo đường phân thủy.

Tấm bản đồ I kèm theo chưa bao giờ được công nhận bởi ủy ban hỗn hợp. Ủy ban này đã ngừng hoạt động từ nhiều tháng trước khi tấm bản đồ I được thiết lập. Người ta có thể hoài nghi việc tấm bản đồ này đã được những trắc địa viên sử dụng làm căn bản trong khu vực núi Dangrek và Tòa cho rằng, nguyên thủy, tấm bản đồ này không có tính bắt buộc. Nhưng mọi người đã thấy, trong hồ sơ phân định, bộ bản đồ đã chuyển lên chính phủ Thái như là kết quả của công trình phân định biên giới. Nhà cầm quyền Thái đã không có phản ứng nào (về các tấm bản đồ này) từ thời kỳ đó, cũng không có phản ứng nào trong nhiều năm sau. Người ta phải kết luận rằng nó đã được sự chấp nhận chính phủ Thái. Nếu phía Thái đã chấp nhận tấm bản đồ đính kèm I mà không làm các cuộc nghiên cứu, thì bây giờ họ không thể vịn vào lỗi lầm này để làm vô hiệu điều mà họ đã chấp thuận.

Nhà nước Xiêm, sau đó là Thái Lan, đã chưa bao giờ đặt vấn đề về bản đồ đính kèm I trước năm 1958, là lúc hai bên Thái và Cambodge đã mở những cuộc thuơng thảo về chủ quyền ngôi đền. Trong khi đó, vào các năm 1934-1934, một cuộc trắc địa đã cho thấy có sự khác biệt giữa đường phân thủy trên thực tế và đồ tuyến biên giới trên bản đồ I. Một số bản đồ khác đã được thiết lập, trong đó đặt ngôi đền thuộc lãnh thổ Thái Lan. Nhưng phía Thái Lan vẫn tiếp tục sử dụng, thậm chí in ra, những tấm bản đồ theo đó ngôi đền Preah Vihear thuộc về phía Cambodge. Mặt khác, trong khoảng thời gian thuơng thuyết về hiệp ước Pháp-Xiêm 1925 và 1937, mà các hiệp ước này khẳng định hiệu lực của đường biên giới, hoặc là vào năm 1947, trước ủy ban hòa giải Pháp-Xiêm tại Washington, đáng lẽ phía Thái đã đặt lại vấn đề này, thì họ đã không làm gì cả. Kết luận lại, như thế Thái Lan đã chấp nhận đường biên giới như đã vẽ trong bản đồ I, cho dầu nó có phù hợp hay không phù hợp với đường phân thủy của rặng Dangrek. Phía Thái Lan đã tuyên bố rằng, trong mọi thời kỳ tranh chấp, vì đã chiếm hữu trên thực tế ngôi đền, do đó Thái không cần phải đặt lại vấn đề này. Việc chiếm hữu và hành sử chủ quyền trên thực tế là những bằng chứng rằng phía Thái Lan chưa bao giờ chấp nhận đường biên giới theo như bản đồ I. Nhưng Tòa cho rằng, sẽ khó chấp thuận các hành động này, đến từ các chính quyền địa phương, vì nó phủ nhận thái độ của chính quyền trung ương. Hơn nữa, vào năm 1930, lúc hoàng thân Damrong (bộ trưởng bộ Nội Vụ Thái), lúc thăm viếng ngôi đền, đã được sự tiếp đón chính thức của giới chức Pháp phụ trách địa phương của Cambodge, dịp này Thái Lan đã không có thái độ nào.
Vì vậy Tòa cho rằng phía Thái Lan đã thực sự nhìn nhận tấm bản đồ I. Cho dầu còn hiện hữu một hoài nghi về việc này, nhưng bây giờ Thái Lan không thể phủ nhận cái mà họ đã ký nhận trước đó, bởi vì Pháp và Cambodge đã tin cậy vào nó, cũng như phía Thái Lan đã hưởng được những lợi ích mà công ước 1904 dành cho nước này trong vòng 50 năm. Mặc khác, sự ký nhận này bao hàm luôn tấm bản đồ I, như những điều ước khác. Vào thời kỳ đó hai bên có thỏa thuận về cách diễn đạt ý nghĩa của các điều ước, theo đó đường biên giới vẽ trên bản đồ sẽ mạnh hơn ý nghĩa diễn tả trong công ước. Trong khi đó, không có gì cho thấy rằng hai bên ký kết có sự chú ý đặc biệt đến đường phân thủy, cho dầu bản thân đường này thể hiện một sự quan trọng cực kỳ cho hai bên trong việc xác định đường biên giới. Tòa cho rằng ý nghĩa của nó hôm nay vẫn không thể khác.

Vì vậy, Tòa cho rằng, trong vùng tranh chấp, đường biên giới là đường xác định trên bản đồ I và sẽ không cần thiết để tìm hiểu là đường biên giới này có phù hợp với đường phân thủy hay không.

Vì những lý lẽ này Tòa phán quyết thắng kiện cho bên Cambodge về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear.

4. Vấn đề tranh chấp Preah Vihear từ sau vụ phân xử đến nay.

Quần chúng Thái Lan đón nhận tin CIJ xử Cambogde thắng kiện với sự phẫn nộ. Theo họ, nguyên nhân việc thua kiện là do những người có trách nhiệm đã không coi là quan trọng việc đưa ra tòa CIJ của phía Cambodge. Để xoa dịu dân chúng, nhiều tướng lãnh lên tiếng cho biết sẽ « không bao giờ trả ngôi đền lại cho Cambodge » hay « mỗi tất đất của Thái Lan sẽ được bảo vệ bằng mọi giá, kể cả bằng xương máu của chúng ta… »

Thái âm thầm rút khỏi Preah Vihear từ ngày 15 tháng 7 năm 1962 nhưng phải đến đầu năm 1963 thì quân đội Cambodge mới bắt đầu tiếp quản ngôi đền này.

Nhà nước Thái giải thích cho dân chúng việc phải rút bỏ Preah Vihear vì các lý do từ điều 94 của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc : 1/ Tất cả các nước thành viên của LHQ cam kết tuân thủ các phán quyết của CIJ trong mọi tranh chấp mà nước thành viên này có can dự. 2/ Nếu một bên của vụ tranh chấp không thực thi những khoản bắt buộc do phán quyết của CIJ, thì bên kia có thể yêu cầu Hội Đồng Bảo An và cơ quan này, nếu thấy cần thiết, có thể khuyến cáo hay quyết định những phương cách cần thiết để thực hiện phán quyết đó.

Dầu vậy, phía Thái Lan cũng bảo lưu việc sẽ trở lại bằng mọi phương tiện hợp pháp, khi thời điểm cho phép, để dành lại chủ quyền ở ngôi đền. Một Ủy ban được thành lập gồm các nhà luật học, chuyên gia nhằm nghiên cứu về vấn đề Preah Vihear cũng như về chủ quyền của bốn tỉnh (hữu ngạn sông Cửu Long) hiện thuộc về Cam Bốt.

Nhưng vấn đề Preah Vihear vẫn không được giải quyết ổn thỏa, vì quân Thái chỉ rút đi các đơn vị đóng trong đền nhưng dưới chân ngọn đồi thì họ cho rào kẽm gai. Quân đội được lệnh bắn vào bất kỳ ai vượt qua hàng rào này. Như đã thấy trong hình, ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên chỏm núi cao, ngăn cách với bình nguyên Cam Bốt bằng một bức tường đá thẳng đứng. Nếu dưới chân ngọn đồi hoàn toàn rào lại thì từ phía Cam Bốt không có cách nào lên đền. Phía Thái Lan viện lý do phán quyết của CJI chỉ liên quan đến chủ quyền ngôi đền mà không nói đến chủ quyền vùng đất chung quanh ngôi đền.
Chỉ hai tháng sau, súng đã nổ tại ngôi đền từ khi có phán quyết của CIJ. Ngày 24 tháng 8, quân đội Cam Bốt tổ chức một cuộc hành quân nhằm mục tiêu lập trong ngôi đền một đồn binh. Việc này không thành công vì quân Thái nổ súng. Chỉ đến năm 1963, nhân dịp đầu năm, ông hoàng Sihanouk tổ chức một cuộc hành hương lên ngôi đền, với sự tham gia của nhiều phái đoàn ngoại giao nước ngoài. Cuối cùng, ngày 5 tháng giêng năm 1963 cuộc hành hương được thực hiện hoàn hảo mà không xảy ra vấn đề nào. Cuộc hành hương được biến thành buổi lễ thâu nhận ngôi đền vào nước Cam Bốt.

Chiến tranh VN làm tình hình chính trị trong khu vực thay đổi. Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp sâu hơn vào nội tình Nam VN. Trong khi đó, ông hoàng Sihanouk công khai liên minh với Trung Cộng. Nhân dịp này phía Thái Lan chuẩn bị kế hoạch để chiếm lại ngôi đền. Các cuộc chạm súng ở các vùng biên giới Thái-Miên trở nên thường trực. Tháng 6 năm 1966, một phái đoàn quân sự thuộc ONU đến quan sát khu vực.

Hai bên Thái- Cam Bốt, qua trung gian của một ủy ban thuộc LHQ, tháng 9 năm 1966, bắt đầu đối thoại về vấn đề biên giới. Nhưng tháng 3 năm 1970 ông hoàng Sihanouk bị lật đổ. Tình hình khu vực lúc đó bất ổn do thế lực của phe cộng sản tăng cao. Khmer đỏ được sự trợ giúp trực tiếp từ Trung Cộng nên phát triển mạnh. Thái Lan lựa chọn thái độ « không can thiệp » vào các vấn đề nội bộ của Cam Bốt, do lo ngại quân Thái cộng bắt tay được với Khmer đỏ và Việt Cộng. Tướng Lon Nol đề nghị với Thái Lan hai nước « cộng đồng quản lý – condominium » về ngôi đền Preah Vihear để hy vọng liên kết với Thái Lan chống lại Khmer đỏ và Việt Cộng nhưng bị Thái từ chối. Thái viện lý do tình hình không thuận tiện để thuơng thảo về vấn đề biên giới. Vấn đề tranh chấp Preah Vihear vì vậy chìm vào quên lãng.

Một thời gian dài gần ba thập niên Cam Bốt chịu đựng nhiều biến cố : chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng, diệt chủng, và bất ổn thường trực (1970-2000). Quân Khmer đỏ thua trận 1979, tàn quân rút vào các chiến khu vùng tây và tây bắc Kampuchia, giáp ranh với Thái Lan, tức khu vực thuộc các tỉnh Preah Vihear, Siem Reap, Battambang. Ở đây quân Khmer đỏ được các tài phiệt và quân phiệt Thái Lan bảo vệ, một mặt dùng Khmer đỏ bảo vệ biên giới, ngăn chận bước tiến của Việt Nam, một mặt mua bán đá quí. Khu vực ngôi đền bỏ hoang phế.

Năm 2000, hai nước Thái và Kampuchia ký kết một bản ghi nhớ (MOU - memorandum of understanding) về việc hợp tác giữa hai bên trong một Ủy Ban hỗn hợp về biên giới JBC (Commission Mixte des Frontières) để kiểm soát và cắm mốc biên giới chung dựa trên các bản đồ đã được hai bên công nhận. Trong thời chiến tranh, một số mốc giới bị mất mát hay bị dời đi.

Hai bên chỉ căng thẳng trở lại từ tháng 7 năm 2008. Nguyên nhân bắt nguồn từ tháng 7 năm 2008, sau buổi họp tại Canada, UNESCO đã công nhận ngôi đền Preah Vihear của Kampuchia là một di sản văn hóa của nhân loại.

Preah Vihear 6

Hình 5 : Bản đồ khu vực Preah Vihear được UNESCO ghi vào « di sản văn hóa của nhân loại ». Vùng màu vàng thuộc về khu vực đền. Vùng màu xanh là vùng mở rộng.

Việc này gây làn sóng bất bình trong dân chúng cũng như chính giới Thái Lan. Họ cho rằng mặc dù ngôi đền Preah Vihear thuộc về Kampuchia nhưng khu vực này vẫn chưa được phân định rõ rệt. Nạn nhân đầu tiên là ông Noppadon Pattama, Bộ trưởng bộ Ngoại Giao Thái Lan. Ông này đã phải từ chức, vì đã ký với Kampuchia trước đó một thỏa ước hữu nghị liên quan đến việc ủng hộ đề nghị (lên UNESCO) của Kampuchia về ngôi đền Preah Vihear (là « di sản văn hóa nhân loại »). Văn bản ký kết, nếu có hiệu lực, không những hàm ý công nhận chủ quyền của Kampuchia tại ngôi đền mà còn công nhận toàn bộ khu vực chung quanh Preah Vihear (khoảng 4,5 km²) thuộc về Kampuchia. Theo phán quyết của Tòa án Tối cao Thái Lan thì thỏa ước hữu nghị mà ông Noppadon Pattama ký kết với Kampuchia thì không có hiệu lực, vì nó vi hiến.

Từ tháng 4 năm 2011, tranh chấp ngôi đền đột ngột căng thẳng trở lại, với vài cuộc chạm súng nhỏ giữa quân đội hai bên Thái-Khmer, làm cho một số lính của hai bên tử thuơng. Việc căng thẳng này làm cho dân chúng sinh sống các vùng phụ cận, gồm trên 10.000 người, phải di tản sang các vùng chung quanh. Cũng cần nhắc lại, năm 1992, Thái Lan đã chống lại việc UNESCO nhìn nhận Angkor Vat là di sản văn hóa của nhân loại.

Preah Vihear 4

Hình 6 : Bản đồ khu vực ngôi đền Preah Vihear cho Thái Lan đưa lên UNESCO nhân đại hội tại Christchurch, Tân Tây Lan năm 2007. Theo đó Thái Lan cho rằng vùng màu vàng thuộc về Thái Lan.

5. Kết luận:

Xét đòi hỏi của Thái Lan quan tấm bản đồ (hình 6) năm 2007, ta thấy phía Thái nhìn nhận chủ quyền của Kampuchia ở ngôi đền nhưng không chấp nhận chủ quyền nước này khu vực đất chung quanh. Lý lẽ của Thái Lan do đó vẫn đặt trên việc đường biên giới là “đường phân thủy” thay vì là đồ tuyến trên bản đồ I.

Về pháp lý, nếu xét nội dung của phán quyết CIJ ghi ở phần trên, ta thấy CIJ nhìn nhận đường vẽ trên bản đồ I là đường biên giới hai nước. Việc Thái Lan phản đối bản đồ này hôm nay, cũng như lý lẽ của Thái trước tòa CIJ năm 1962, thì không thuyết phục. Thái Lan không đưa ra được yếu tố mới nào khác, ngoài việc nhắc đặt lại vấn đề đường biên giới vẽ trên bản đồ I. Việc này họ đã đặt ra từ năm 1962 qua vụ án nhưng không được CIJ chấp nhận. CIJ đã cho rằng, Thái Lan vì không phản đối tấm bản đồ này trong một thời gian dài, việc này hàm ý phía Thái đã đồng ý. Phán quyết kết luận: đường biên giới là đường xác định trên bản đồ I và sẽ không cần thiết để tìm hiểu là đường biên giới này có phù hợp với đường phân thủy hay không.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.