Dư luận gần đây, trên báo chí hay
trên mạng internet, cho rằng cần phải kiện Trung Quốc về giàn khoan 981. Vấn đề
là ta có thể kiện TQ về việc gì ? Nếu dựa vào các công bố của các học giả
VN, trước hay trong những ngày gần đây, (đặc biệt là của Quĩ Nghiên cứu Biển
Đông), nhắc trường hợp Phi kiện TQ để thúc đẩy VN làm tương tự.
Theo tôi, nếu VN làm như vậy, sác
xuất thắng kiện là vô cùng nhỏ.
Phi kiện TQ ra Tòa Trọng tài Thường
trực (PCA) gồm mười điều. Một số điểm chính : yêu sách đường 9 đoạn (là
không phù hợp với luật biển), về quyền chiếm hữu các cấu trúc địa lý lúc chìm
lúc nổi ở trong hải phận của Phi, về việc chiếm đóng và xây dựng trên các bãi lúc
chìm lúc nổi, về hiệu lực của các bãi đá, về quyền tự do hàng hải v.v…
Nếu VN kiện, xem lại danh
sách bảo lưu của TQ năm 1996 ở LHQ, nếu không lầm thì VN sẽ chỉ có thể kiện TQ (ở
Tòa trọng tài theo phụ lục VII của công ước về Luật Biển 1982, hay một Tòa khác...),
về việc mâu thuẩn của hai bên do cách diễn giải khác nhau về hiệu lực các đảo
thuộc Hoàng Sa. Điển hình là đảo Tri Tôn mà phía VN gọi là « cấu trục địa
lý » lúc chìm lúc nổi.
VN không thể kiện về hiệu
lực « đường chữ U » vì vị trí giàn khoan 981 nằm trong vùng chồng lấn
giữa các đảo Hoàng Sa và thềm lục địa Việt Nam (trong khi TQ chủ trương HS
thuộc chủ quyền của họ). VN cũng không thể kiện về việc TQ đã chiếm hữu các cấu
trúc địa lý (lúc chìm lúc nổi) nằm trong hải phận kinh tế độc quyền (ZEE) của
mình. Các cấu trúc này, nếu có, cũng nằm trong vùng kinh tế độc quyền của các
đảo Hoàng Sa.
VN cũng không thể kiện TQ
do việc tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa (do TQ bảo lưu không chấp nhận
giải quyết tranh chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc tế).
Nếu có thể xúc tiến việc
kiện (theo kiểu của Phi), thì VN, hoặc yêu cầu Tòa tuyên bố các đảo Hoàng Sa
quá nhỏ, không được hưởng qui chế đảo (theo định nghĩa của điều 121 Luật Biển
1982), chúng chỉ có tối đa lãnh hải 12 hải lý mà thôi ; hoặc yêu cầu Tòa
giải thích về hiệu lực « đảo » của các đảo Hoàng Sa.
Kiện như vậy Việt Nam có
thể bị Estoppel.
(Đại khái theo nguyên tắc
luật học này, người ta không thể nói (hay làm) ngược lại những gì đã chủ trương
trước kia.)
Theo tuyên bố của chính
phủ CHXHCNVN ngày 12-5-1977, điều 5 qui định : « Các đảo và quần đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam ở ngoài vùng
lãnh hải nói ở Điều 1 có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa riêng như đã quy định trong các điều 1, 2, 3, và 4 của Tuyên bố
này ».
Các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là các quần đảo « ở ngoài vùng lãnh hải » theo qui định ở
điều 1, nên mặc nhiên chúng có vùng (ZEE) 200 hải lý (theo điều 3).
Nội dung điều 6 của Tuyên
bố 12-5-1977, cho thấy VN có ý định sẽ điều chỉnh các điều khoản trong tuyên bố
này để phù hợp với luật quốc tế.
Vấn đề là VN chưa bao giờ
làm việc này một cách công khai (để phù hợp với bộ Luật Biển 1982).
Trên thực tế một số đảo ở
Hoàng Sa và Trường Sa hội đủ các yếu tố « đảo » theo điều 121 (có người
sinh sống, có nền kinh tế tự túc…) của Luật Biển 1982. Mặt khác, nhiều trường
hợp phân định ranh giới biển, các quốc gia cho phép các đảo rất nhỏ, thậm chí
không có người ở, vẫn được hưởng hiệu lực như trên đất liền. Một số nước như
Nhật, Pháp… đều chủ trương các đảo của họ, dầu chỉ là một hòn đá nhỏ xíu nổi
lên mặt nưóc, có đầy đủ hiệu lực.
Án lệ của CIJ Jan Mayen –
Groenland (Đan Mạch – Na Uy) 1993 cho thấy đảo Jan Mayen rất nhỏ so (và không
có người ở thường trực) so với tầm mức như là một lục địa của đảo Groenland
(tương tự đảo Bạch Long Vĩ của VN và Hải Nam của TQ trong Vịnh Bắc Việt), nhưng
quyết định của Tòa (dựa trên công ước về Biển 1958 vì luật Biển 1982 chưa hiệu
lực), là đảo Yan Mayen có hiệu lực tương tự như đảo Groenland.
Bây giờ VN có thể yêu cầu
Tòa tuyên bố ngược lại chủ trương của mình trước đó, là các đảo này quá nhỏ,
không thể gọi là đảo theo định nghĩa của điều 121 ? Chỉ vì TQ đã quản lý
quần đảo HS ?
Do mâu thuẩn lập trường, nguy
cơ VN bị Estoppel rất lớn. Việc tòa bác đơn, đồng nghĩa với việc TQ có thể đòi
hỏi hiệu lực các đảo HS thế nào cũng được. Điều quan trọng hơn, Tòa mặc nhiên
nhìn nhận các đảo này không thuộc chủ quyền của VN.
Nếu VN yêu cầu Tòa giải
thích hiệu lực các đảo Hoàng Sa. Hồ sơ VN cũng có thể bị bác. Hai bên VN và
TQ, dầu không đồng ý với nhau mọi điểm do tranh chấp về chủ quyền HS, nhưng đã
có một điểm chung về « hiệu lực các đảo » Hoàng Sa. Làm sao anh có
thể yêu cầu tòa xử một vụ mà hai bên, nguyên và bị, đã đồng ý với nhau về kết
quả ?
Do đó, người viết cho rằng
cần phải gạt bỏ các đề nghị mang tính hấp tấp. VN cần một chiến lược pháp lý đã
được kết tinh trong một quá trình nghiên cứu và suy nghĩ lâu dài. Kiện để thắng
chứ không phải kiện để thua (hay có nguy cơ thua), như các đề nghị mang tính
« mì ăn liền », hời hợt.
Lối thoát của VN, nếu chủ
trương theo hướng « phân chia vùng biển » như hiện nay (của các học
giả VN), cũng có thể thực hiện được. Chìa khóa của mọi vấn đề để VN không bị
thiệt hại, là VN phải cương quyết khẳng định chủ quyền của mình ở Hoàng Sa.
Muốn làm được việc này, VN cần phải làm rõ lập trường về « một quốc gia
Việt Nam » trong khoản thời gian 1954-1973. Tất cả để chứng minh VN có danh
nghĩa chủ quyền ở HS.
Trên quan điểm đó (VN có
chủ quyền ở HS không thể phản bác), VN có thể chủ trương việc phân định vùng
biển « ngoài cửa vịnh Bắc Việt » (tức trong vùng có giàn khoan 981)
là nối tiếp với việc « phân định trong vịnh Bắc Việt ». Hai bên có
thể áp dụng công ước đã ký tháng 12 năm 2000 về hiệu lực các đảo để làm nền
tảng. (Tương tự việc VN và TQ cùng đồng ý lấy các công ước Pháp-Thanh 1887 và
1895 làm nền tảng để phân định lại biên giới năm 1999).
VN có thể dẫn các án lệ
C.I.J tranh chấp lãnh thổ và phân định hải phận Colombie-Nicaragua 19-11-2012,
cho thấy các đảo của Colombie không được tính trọn vẹn hiệu lực. VN cần nhấn
mạnh về nội dung Luật Biển 1982 và các nguyên tắc « công bằng -
équitabilité » cũng như « tỉ lệ - proportionnalité » đã được áp
dụng rộng rãi trong các vụ phân định biên giới biển. Tức là đường biên giới
biển được điều chỉnh theo tỉ lệ (chiều dài bờ biển hai bên) và sao cho diện
tích hai bên được tương đồng (équitabilité). VN có thể dẫn các án lệ (về nguyên
tắc công bằng và theo tỉ lệ) như các vụ C.I.J, Jamahiriya arabe libyenne/Malte 1985, Délimitation maritime en mer
Noire (Roumanie c. Ukraine) C.I.J. 2009, Golfe du Bengale, TIDM, 14-3-2012…
VN đã chấp nhận phân định
lại Vịnh Bắc Việt bằng luật Biển 1982 cùng với các nguyên tắc « công bằng
- équitabilité » và « tỉ lệ - proportionnalité ». Việc này đã
làm cho VN thiệt hại trên 11.000km² biển (so với đường phân chia theo công ước
1887).
VN chủ trương các đảo nhỏ
ven bờ không có hiệu lực, (mà các đảo này hầu hết lớn hơn các đảo HS). Ngoài ra
còn có đảo Bạch Long Vĩ và đảo Cồn Cỏ (các đảo này lớn hơn và đông dân hơn đảo
Phú Lâm rất nhiều), các đảo này chỉ có hiệu lực rất giới hạn.
Vì vậy không thể cho các đảo Hoàng Sa có hiệu lực nhiều hơn đảo Bạch Long Vĩ (hay Cồn Cỏ) được.
Nếu phía TQ một mực không
rút giàn khoan về, trong chừng mực Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ tháng
12-2000 đã bị vi phạm. VN có thể vịn vào các nguyên tắc đã qui định trong
« Convention de Vienne sur les droits des Traités 1969 », cho rằng
phía TQ đã vi phạm Hiệp định Phân định vịnh Bắc việt tháng 12-2000. Từ đó, theo
các qui tắc hướng dẫn, để đưa TQ ra một tòa trọng tài.
Dĩ nhiên, VN còn nhiều lối
thoát khác, có lợi hơn, tác giả sẽ trình bày sau. Bài này người viết chỉ đưa ra
cái nhìn của mình đối với các « nghiên cứu », các « đề
nghị » của các học giả VN, nhất là nhóm học giả thuộc « Quĩ Nghiên
cứu Biển Đông ». Vì lo ngại rằng không khéo, VN sẽ bị sụp bẫy pháp lý. Cái
bẫy do chính phe mình gài ra.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.