Vấn đề « chủ quyền
lịch sử ».
Nếu tranh chấp giữa VN và
Trung Quốc về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa được đưa ra phân xử trước một Tòa án quốc
tế, nếu phía VN sử dụng những « công trình nghiên cứu » của các học
giả VN (thuộc Quĩ Nghiên cứu Biển Đông) hiện nay, theo tôi, VN không có hy vọng
bao nhiêu để thắng. Các học giả VN chỉ chú trọng đến « bằng chứng lịch sử »
và bỏ qua các yếu tố quan trọng quyết định khác.
Các học giả VN thường dẫn
trong « công trình » của họ các « bằng chứng lịch sử » nhằm
chứng minh VN có chủ quyền không thể chối cãi ở HS. Các bằng chứng này hầu hết
dẫn từ tác phẩm của các học giả VNCH, viết sau khi TQ dùng vũ lực xâm lăng
Hoàng Sa năm 1974. Việc làm của học giả tiền bối đó, tương tự công việc mà các
học giả Phi hiện nay đang làm, mục đích để phản biện lý lẽ của TQ, khi nước này
cho rằng TQ có « quyền lịch sử bất khả tranh nghị » tại các đảo TS.
Các học giả Phi (cũng như
các học giả VNCH ngày trước) đưa ra những bằng chứng như bản đồ, các sử liệu…
chứng minh lãnh thổ TQ, cho đến đầu thế kỷ 20, chưa bao giờ xa hơn Hải Nam. Chứng
minh rằng tên « biển Hoa Nam » chỉ là tên gọi của các nhà hàng hải
Châu Âu đặt ra, không có nghĩa là biển này thuộc về TQ. Chứng minh tên biển Hoa
Nam đã từng được người Hoa gọi là biển Giao Chỉ (người viết đã từng đề cập việc
này ở đây)
và sử sách người Hoa cũng gọi là Nam Hải (biển phía Nam…). Các học giả TQ vô
cùng lúng túng để phản biện lại.
Trường hợp VN bây giờ (với
giàn khoan 981) thì khác. Từ năm 1974 đến nay (nếu tính nhóm An Vĩnh thì từ năm
1949), TQ đã chiếm HS. Các tài liệu lịch sử chỉ hữu dụng (cho VNCH) trong thời
điểm đó, tức sau tháng giêng năm 1974, khi VNCH chuẩn bị hồ sơ kiện TQ trước
Tòa quốc tế. VNCH không làm được, một mặt vì VNCH không có tư cách pháp nhân
« quốc gia ». Không có tư cách pháp nhân quốc gia thì không phải là
« đối tượng » của luật quốc tế. Mặt khác, các bên VNDCCH và MTGPMN không
ký tên vào bản kháng nghị chung. Nếu kiến nghị này được ký bởi ba bên, VNCH sẽ
có tư cách pháp nhân, là bên đại diện cho nước VN thống nhất, có thể kiện TQ ra
Tòa quốc tế. Thời đó, phía TQ cũng sử dụng một lý lẽ như đã sử dụng hôm nay đối
với Phi : TQ có chủ quyền bất khả tranh nghị tại các đảo Hoàng Sa.
Đã 40 năm qua, các tài
liệu « lịch sử » đó đã không còn giá trị nhiều đối với VN, như là đối
với Phi. TQ và Phi, chiếm được một số đảo của VN, từ sau Thế chiến II, cả hai
đều có hồ sơ chủ quyền « yếu ».
Nếu ta đọc các án lệ của
các Tòa quốc tế phân xử các vụ tranh chấp về lãnh thổ, ta thấy yếu tố « bằng
chứng lịch sử » có giá trị rất tương đối, đứng sau rất xa các lý thuyết « uti
possidetis », « effectivité », « estoppel », « acquiescement »…
Một số thí dụ sau đây, dẫn
từ các án lệ, cho thấy hiệu quả của các « bằng chứng lịch sử » ảnh
hưởng thế nào lên các quyết định của quan Tòa.
Giá trị pháp lý các bản đồ :
Các học giả VN thường dẫn
các bản đồ cổ của TQ, kết luận rằng TQ không có chủ quyền ở HS và TS.
Giả sử phía TQ đưa ra các
bản đồ sau đây : 1/ Bản đồ thế giới do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội
Nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1960. Trên bản đồ này, quần đảo Nam Sa
(Trường Sa) được đánh dấu là lãnh thổ Trung Quốc. 2/ Cục Bản đồ của
Việt Nam xuất bản tấm bản đồ năm 1972, trong đó quần đảo Nam Sa được
chú thích bằng tiếng Hoa, chứ không phải bằng tiếng Việt, tiếng Anh
hay tiếng Pháp.
Nếu TQ trưng hai tấm bản
đồ này ra, phản ứng mọi người sẽ ra sao ? Không lẽ bó tay chấp nhận HS và
TS thuộc TQ ?
Nếu ta đi ngược thời gian
xa hơn, các bản đồ nước Trung Hoa cũng không hề chú dẫn hai quần đảo HS và TS,
nhưng trong vài bản đồ lãnh thổ nước này bao gồm nước VN.
Khi TQ trưng bản đồ này, không
lẽ phải công nhận VN thuộc TQ ?
Theo thông lệ công pháp
quốc tế, trong các vụ xử tranh chấp chủ quyền, « bản đồ » tự nó
thường không được nhìn nhận như là một « bằng chứng » mà chỉ
được xem như là một « tài liệu - information », để bổ túc thêm cho
một « lý lẽ - argument » nào đó, hay để khẳng định một « thái
độ » nào đó của một bên tranh chấp.
Nhiều án lệ về tranh chấp
lãnh thổ cho thấy, đa số trường hợp các bản đồ được các bên trưng dẫn không
được Tòa sử dụng như là « bằng chứng ». Các bản đồ này không hề có
tác động nào đến quyết định của các quan tòa.
Theo tập quán quốc tế, một
tấm bản đồ chỉ có giá trị pháp lý chỉ khi nó được đính kèm với các văn bản của
một hiệp đinh phân định biên giới, dĩ nhiên hiệp ước này phải còn hiệu lực. Các
thí dụ dẫn dưới đây (tranh chấp Ấn Độ - Pakistan) cho ta thấy như vậy.
Lý thuyết về « hành
sử quyền chủ quyền – effectivité »
Thuyết này được áp dụng
nhiều ở các Tòa quốc tế xử các tranh chấp về lãnh thổ sau Thế chiến II. Theo
đó, một vùng đất thuộc quốc gia A, do một lý do bất kỳ nào đó, lại được quốc
gia B kiểm soát và hành sử các quyền thuộc chủ quyền (tài phán, tức quyền được
xét xử - juridiction, quan thuế, cảnh sát…) một cách hòa bình trong một thời
gian dài, quốc gia A sẽ mất vùng lãnh thổ đó cho quốc gia B.
Có rất nhiều án lệ về
tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước đã được Tòa tuyên án dựa trên lý thuyết về
« hành sử quyền chủ quyền ». Ở đây người viết lấy hai thí dụ :
1/ tranh chấp Ấn Độ và Pakistan về vùng đầm lầy có tên là « Rann off
Kutch » và 2/ Tranh chấp giữa Malaisie và Singapour về chủ quyền các đảo Pedra
Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge.
1/ Trường hợp tranh chấp
giữa Ấn Độ và Pakistan về vùng đầm lầy Kutch (Rann Of Kutch). Tranh chấp được
hai bên đưa ra Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) giải quyết ngày 19-2-1968. Hồ sơ
hai bên đệ lên Tòa lên tới trên 10.000 trang tài liệu cùng hàng trăm tấm bản đồ.
Về
giá trị các bản đồ, Tòa cho rằng
các bản đồ tự nó không có một trọng lượng đặc biệt. Chúng có thể có một giá trị
chỉ khi được dựa vào các yếu tố ngoại tại, như được sự phê chuẩn hay được sự
chuẩn duyệt chính thức của các viên chức ở cấp cao, đồng ý cho bản đồ có một
giá trị cao hơn.
Hàng trăm tấm bản đồ do hai bên đệ trình, không có tấm bản đồ nào có một
giá trị đặc biệt trước Tòa.
Các
hồ sơ mang tính thuyết phục nhất, do phía Ấn Độ cung cấp, cho thấy nhà nước
tiền nhiệm của Ấn là đế quốc Anh, đã có những hành vi hành sử « quyền chủ
quyền - droit de souveraineté » trên vùng tranh chấp như thuế má, an ninh,
cảnh sát… (effectivité).
Phía Pakistan cũng đưa ra
những bằng chứng « effectivité », cho thấy chính quyền địa phương
cũng đã hành sử « quyền chủ quyền » tại vùng tranh chấp này. Các dữ
kiện nay bị Tòa bác. Tòa cho rằng « quyền chủ quyền » chỉ có thể do
chính quyền trung ương hành sử, không thể do chính quyền địa phương.
Tòa phán khoảng 90% vùng
tranh chấp giao cho Ấn Độ.
Phía Pakistan được khoảng
10% vùng tranh chấp. Trong vùng này Pakistan chứng minh được các hành vi hành
sử quyền chủ quyền (effectivité) tại một số vùng đất. Nhưng thực ra, khu vực
này không thể giao cho Ấn Độ, vì dân chúng ở đây, thuộc Pakistan, đã sinh sống
tại đây hàng bao nhiêu thế hệ, không thể giao lại cho Ấn Độ được. (Tức là vấn
đề « quyền lịch sử » được ưu tiên hơn « effectivité »,
nhưng Tòa không cho đó là « quyền lịch sử » mà dùng thuyết
« effectivité » để ra phán quyết).
2/ Trường hợp tranh chấp giữa
Malaisie và Singapour về chủ quyền các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh,
Middle Rocks và South Ledge, qua phán quyết ngày 23-5-2008 của CIJ.
Ta thấy phía Mã Lai đã đưa
những bằng chứng lịch sử bất khả tranh biện rằng Mã Lai có chủ quyền lịch sử ở
các đảo tranh chấp. Tòa nhìn nhận thực tế này, cho rằng danh nghĩa chủ quyền
tiên khởi (titre d’original) của các đảo này thuộc vương quốc Johor, là nước
tiền nhiệm của Mã Lai. Chủ quyền này được thể hiện liên tục trong lịch sử, cho
đến một thời điểm, sau khi các đế quốc Anh và Hòa Lan đặt quyền thống trị tại
Mã Lai và Indonésie. Thời điểm đó là khi nước Anh, nhà nước tiền nhiệm của
Singapour, đã đặt một ngọn đèn pha tại đảo Pedra Branca mà không gặp sự phản
đối của nhà nước Johor. Chính quyền bảo hộ Anh tiếp tục bảo trì và làm chủ ngọn
đèn pha này trong một thời gian dài, không hề gặp một phản đối nào đến từ Johor.
Sau khi Singapour được Anh
trả độc lập, đồng thời Singapour bị từ khuớc gia nhập khối Mã Lai, Johor trở
thành một tiểu bang trong khối này. Singapour muốn biết rõ ai có chủ quyền trên
đảo Pedra Branca nên gởi thư, năm 1953, hỏi bộ ngoại giao Johor số phận của đảo
này. Viên bộ trưởng lâm thời bộ ngoại giao Johor đã viết « công hàm »
(hay công thư cũng được,) cho rằng đảo Pedra Branca không thuộc « sở
hữu » của Johor. Singapour tiếp tục bảo trì và sử dụng ngọn đèn pha này
cho đến lúc tranh chấp xảy ra. Trước Tòa, « công thư » này đã có hiệu
lực quyết định, ảnh hưởng lên phán quyết của Tòa.
Tòa phán rằng Mã Lai, nước
kế thừa vương quốc Johor, đã mất chủ quyền lịch sử tại đảo Pedra Branca (nhưng
còn giữ được đảo Middle Rocks), vì các yếu tố : Singapour (và nhà nước
tiền nhiệm) đã thể hiện các hành vi thuộc quyền chủ quyền (effectivité) ở đảo
này một cách hòa bình và liên tục trong một thời gian dài. Mặt khác, Johor đã phủ
nhận chủ quyền đảo này qua « công hàm » (hay công thư) 1953.
Mã Lai vì thế không thể
đòi lại đảo Pedra Branca, mặc dầu trên danh nghĩa chủ quyền lịch sử thì thuộc
nước này. Lý do : nhà nước tiền nhiệm đã « bỏ » nó.
Ta thấy trong hai vụ án
này, yếu tố « liên tục quốc gia » và vấn đề « kế thừa »
(qua các thời kỳ thuộc địa, hay biến cố chính trị làm lãnh thổ thay đổi, sẽ nói
bên dưới) của các bên cũng đã được Tòa xem xét tỉ mỉ. Thái độ của các quốc gia (tiền
nhiệm và kế tục) liên quan đến vùng lãnh thổ tranh chấp, thể hiện qua những sự
kiện ngoại giao như các kết ước, các tuyên bố đơn phương… trong quá khứ (có
liên quan đến chủ quyền lãnh thổ)… đều có tầm quan trọng về pháp lý, ảnh hưởng
đến quyết định của Tòa.
Điều ghi nhận khác, lý
thuyết về « hành sử chủ quyền - effectivité » có giá trị cao hơn danh
nghĩa chủ quyền lịch sử (titre d’original), nếu danh nghĩa này bị gián đoạn,
hay quốc gia có danh nghĩa chủ quyền không kịp thời lên tiếng phản đối.
Đối với hồ sơ HS và TS,
những hành vi của Pháp đã thể hiện liên quan HS và TS, như tuyên bố chủ quyền,
cắm mốc, cho tàu đi tuần… có giá trị pháp lý cao. Trước một tòa án, VN chắc
chắn có được danh nghĩa chủ quyền lịch sử tại HS và TS. Vấn đề là danh nghĩa
này có bị mất hay không, là tùy thuộc vào sự liên tục quốc gia, việc kế thừa
danh nghĩa chủ quyền lịch sử, việc tiếp nối các hành vi hành sử quyền chủ quyền
của nhà nước kế tục đối với nhà nước tiền nhiệm.
Nếu vì một lý do gì đó
việc hành vi hành sử chủ quyền không thể hiện được, một sự « gián
đoạn » về danh nghĩa chủ quyền lịch sử thành hình, (do việc TQ xâm lăng
bằng vũ lực) nếu phía VN không thường xuyên lên tiếng phản đối, hoặc có những
động thái nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS, chủ quyền ở đây có thể chuyển sang
TQ.
Thuyết « Uti
possidetis » :
Thuyết này xuất hiện tại
Nam Mỹ, khi các nước ở đây dành độc lập. Đại khái là vùng đất đó, trước đó anh
có nó thì sau đó anh tiếp tục có nó. Lý thuyết này trở thành một « tập
quán quốc tế », được sử dụng thường xuyên trong các vụ tranh chấp về lãnh
thổ tại các nước vừa độc lập. Một thí dụ về thuyết « uti possidetis » :
Ai cũng biết một phần
không nhỏ đất miền Nam, kể cả vùng Đà Lạt, Darlac, Tây Nguyên… hay đảo Phú Quốc
là thuộc về Cao Miên ngày xưa.
Người Miên có lý khi nói
rằng họ có bằng chứng « lịch sử không thể chối cãi », để chứng minh
vùng đất đó là của họ.
Các học giả VN cũng thường
nói rằng VN có bằng chứng lịch sử không thể tranh cãi tại HS và TS.
Ta thấy việc sử dụng các
« bằng chứng lịch sử không thể chối cãi » một cách bừa bãi là chơi
dao hai lưỡi.
VN làm gì có bằng chứng
lịch sử « không thể chối cãi » để chứng minh rằng đất mình ở
đó ? Không lẽ sẽ phải trả lại cho Miên ?
Theo thuyết « Uti
possodetis », trước khi độc lập, các vùng đất đó đã được chính quyền bảo
hộ Pháp sắp xếp cho vào lãnh thổ Việt Nam. Sau khi độc lập, các vùng đất đó sẽ
tiếp tục do VN quản lý.
Thuyết này đặt ra nhằm
tránh việc chiến tranh đổ máu giữa các dân tộc thuộc địa vừa được độc lập. Hầu
hết các án lệ của các Tòa quốc tế, yếu tố « uti possidetis » có giá
trị cao hơn « chủ quyền lịch sử ».
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.