Trong hồ sơ Hoàng Sa, khó khăn nhất
của VN hôm nay là chứng minh được quốc gia có tên gọi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam đã « kế thừa » danh nghĩa chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của thực
thế Việt Nam Cộng Hòa.
Bà Monique Chemillier-Gendreau[i]
dựa lên thuyết « liên tục quốc gia » để cho rằng VNDCCH có thể kế thừa VNCH để
có quyền chủ quyền tại HS và TS :
Le Vietnam aujourd’hui unifié (par la
victoire du Nord) doit choisir à qui il succède sur ce point. La logique
territoriale renforce une cuccession aux droits et actions du Sud-Vietman, seul
compétent d’une point de vue géographique.
Tạm dịch : Nước Việt Nam thống nhất hôm
nay (do chiến thắng của miền Bắc) phải lựa chọn bên nào để kế thừa (danh nghĩa
chủ quyền Hoàng Sa). Lôgíc về mặt lãnh thổ củng cố sự kế thừa về các quyền và những
hành vi của Nam Việt Nam, phía duy nhất có thẩm quyền trên quan điểm địa lý.
Chủ quyền của VN tại HS và TS liên
tục từ nhiều thế kỷ, từ chúa Nguyễn chuyển sang triều Tây Sơn, sang triều đại
nhà Nguyễn, rồi đến nhà nước bảo hộ Pháp. Năm 1954, quốc gia VN bị phân chia
thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, hai quần đảo HS và TS do VNCH quản lý.
Nhà nước VNCH, tiếp nối nhà nước bảo hộ Pháp, quản lý liên tục và khai thác HS
và TS.
Tức là lập luận của bà học giả M.
Chemiller-Gendreau « Nam Việt Nam,
phía duy nhất có thẩm quyền trên quan điểm địa lý » là phù hợp với
thực tế lịch sử và pháp lý.
Một câu hỏi (chính đáng) đã đặt ra,
từ những lần bàn luận trên Facebook : anh đã giết chết người ta thì anh có tư
cách gì để kế thừa người ta ?
Từ « giết chết » sử dụng ở
đây có thể không phù hợp, nhưng thực tế lịch sử giữa hai thực thể VNCH và
VNDCCH, từ năm 1959 đến 1975, đã thể hiện trong chiều hướng như vậy.
Thủ tục « kế thừa » có thể
thể hiện (một cách đơn giản như bà học giả M. Chemiller-Gendreau đề nghị) trong
một hoàn cảnh lịch sử thế này hay không ?
Nội dung Tuyên ngôn độc lập
2-9-1945 của ông Hồ Chí Minh :
Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt
Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân
với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất
cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Tuyên bố này, trên quan điểm pháp
lý, cắt đứt mọi quan hệ giữa nhà nước VNDCCH và nhà nước bảo hộ Pháp. Nhà nước
VNDCCH là chính phủ của một Việt Nam mới (không quan hệ gì với nhà nước vương
quyền cũng như các nhà nước đã từng hiện hữu trên đất nước VN, đồng thời hay
trước đó.)
Nội dung Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Lê Duẩn :
Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là một cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân… Nó đã xoá bỏ chính quyền Nhà nước của thực
dân và phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nhà nước độc lập,
dân chủ thật sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới
trong lịch sử phát triển của nước ta…
Bản báo cáo này khẳng định nhà nước
VNDCCH là chính phủ của một nước VN mới, đã « xóa bỏ thực dân phong kiến ».
Khi đã « xóa bỏ » thì
không có gì còn vướng mắc. Không hiện hữu vấn đề « kế thừa » giữa
mình và cái mình đã xóa bỏ, mà chỉ có việc « chiếm hữu » (hay chiếm
đoạt) mà thôi.
Nội dung hiến pháp 1959 :
Nhưng
đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây chiến tranh xâm lược hòng cướp nước
ta và bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai
cấp công nhân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn thể
nhân dân ta đoàn kết một lòng đứng lên đánh giặc cứu
nước.
Phía VNDCCH luôn gọi VNCH là
« bọn tay sai », là « giặc », là « ngụy ». « Ngụy »
tức là giả. Khi anh cho rằng bọn đó là « giả », không phải là một thực
thể chính trị, thì làm sao hiện hữu vấn đề kế thừa ? Anh không thể kế thừa
một cái gì đó không có thật (ngụy).
Nghị quyết của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ và đường lối của Đảng
trong giai đoạn mới, ngày 10-9-1960 :
Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại
có hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc.
Hai là, giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện
thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước…
Nghị quyết khẳng định chính quyền
miền Nam (VNCH) là « bọn tay sai ».
Câu nói hiện nay trên môi những người
lãnh đạo VN (và các học giả VN) : « nhà nước CXHCNVN đã kế thừa danh
nghĩa chủ quyền HS và TS từ nhà nước VNCH », hay nại việc Thủ Tướng Trần
Văn Hữu tuyên bố này kia tại Hội nghị San Francisco năm 1951 nghe thật là lố bịch
và chướng tai. Đâu có ai kế thừa cái gọi là « danh nghĩa chủ quyền »
từ « bọn tay sai » bao giờ ? Đã là « tay sai » thì chỉ
có « tuân lệnh chủ » chứ làm sao có vấn đề « danh nghĩa » ở
đây ?
Chiến thắng 30-4-1975, không hề hiện hữu một buổi lễ bàn giao chính quyền
giữa VNCH với VNDCCH hay với CPLT MTGPMN.
Không có bàn giao quyền lực thì làm
sao có kế thừa ?
Theo ý kiến của bà học giả M.
Chemiller-Gendreau, sau khi hiệp thuơng thống nhất đất nước 1976, nước CHXHCNVN
có thể « kế thừa » VNCH để khẳng định chủ quyền của VN tại HS và TS.
Nhưng với một thực tế lịch sử và
pháp lý như vậy, ta có thể thuyết phục được ai ? Chưa chắc được với một
người dân thường huống chi trước những Thẩm phán giàu kinh nghiệm trước một Tòa
án, hay trước những học giả dư tài hùng biện của TQ.
Một số học
giả VN biện luận rằng « theo luật quốc tế, chủ quyền lãnh thổ thì thuộc
về quốc gia » và chủ trương có hai quốc gia VNCH và VNDCCH trong thời
kỳ 1954-1975. Mục đích nhằm chứng minh CHXNCHVN đã kế thừa danh nghĩa chủ quyền
ở hai quần đảo HS và TS từ VNCH, thông qua CPLT CHMNVN.
Lập luận này đã sai từ những điều rất
cơ bản :
1/ Không có
« luật quốc tế » nào (còn hiệu lực) qui định « chủ quyền lãnh thổ
thuộc về quốc gia » hết cả. Lý thuyết của các học giả này là lý thuyết « territoire-objet »,
hiện hữu ở thời kỳ phong kiến, lãnh thổ thuộc về vua chúa. Quan niệm này chấm dứt
cùng lúc với chế độ phong kiến quân quyền. Đây là một quan niệm được các nhà Luật
học đương thời phê bình là « sai lầm »[ii].
2/ Không hề hiện
hữu « hai quốc gia » VNDCCH và VNCH trong thời kỳ 1954-1975.
3/ CHXHCNVN
không thể « kế thừa » danh nghĩa chủ quyền HS (và TS) từ VNCH, thông
qua CPLT CHMNVN. Lập luận này dựa theo thuyết « Reversion » không hề
được công pháp quốc tế nhìn nhận (Xem tranh chấp Erythré và Yemen về chủ
quyền các đảo ở Hồng Hải trong bài ở đây).
Khi « lý thuyết » lập nên
từ những lập luận nền tảng (đã sai), thì lý thuyết đó không có một giá trị hữu
dụng nào.
Học giả khác,
(cũng như các học giả nói trên) lập luận trên nền tảng công ước Montévidéo, cho
rằng VNCH là một « quốc gia » :
VNCH là một thực thể có đủ 4 điều kiện của một quốc gia
(state), gồm : (a) một dân số ổn định ; (b) một lãnh thổ rõ rệt ;
(c) có một chính quyền ; và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác.
Tác giả không giải thích bằng cách nào
danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa từ « quốc gia » VNCH chuyển sang
« quốc gia » CHXHCNVN hôm nay.
Nếu các thực thể VNDCCH và VNCH là
hai « quốc gia », thì mối tương quan giữa VNDCCH, VNCH và Trung Quốc
là tương quan giữa « quốc gia » với « quốc gia ». TQ
chiếm HS từ tay VNCH, được sự « im lặng đồng tình » của quốc gia
VNDCCH vào tháng giêng năm 1974, cũng như được sự « đồng thuận » của
« quốc gia » này trong quá khứ thể hiện qua công hàm 1958 của ông Phạm
Văn Đồng (cùng với nhiều hành vi mặc định khác).
Quí vị lập luận làm sao để thuyết
phục mọi người là nước CHXHCNVN hôm nay thụ đắc danh nghĩa chủ quyền tại HS từ
tay VNCH ? TQ đã chiếm HS trên tay VNCH chứ đâu phải trên tay CHXHCNVN. Làm
sao VNCH có thể chuyển cho CHXHCNVN cái đã bị mất ?
Nếu quí vị không giải thích được việc
này, cũng không phản biện được lý lẽ của tôi viết ở đây
và ở đây,
thì làm sao có thể phản biện được những lý lẽ của TQ ? Chưa nói phải biện
luận làm sao để thuyết phục các thẩm phán trước một Tòa án (nếu vấn đề tranh chấp
đưa ra tòa án phân xử).
Quí vị tự trói buộc quí vị (và Việt
Nam) trong những lập luận sai trái. Việc này, nếu chỉ đối với cá nhân của quí vị
thì không ai màng đến làm chi. Vấn đề là nó liên hệ đến đất nước và toàn thể quốc
dân Việt Nam.
Công ước Montévidéo năm 1933 thực
ra là một công ước được ký kết giữa các xứ thuộc Châu Mỹ, lâu ngày trở thành « tập
quán » của Luật quốc tế. Nhưng nội dung của nó không đủ để diễn đạt thế
nào là một « quốc gia » sau Thế chiến II cũng như trong khung cảnh
« Toàn cầu hóa » hiện thời.
Đâu phải hễ có lãnh thổ, dân chúng,
một chính quyền và chính quyền này có khả năng giao dịch với các quốc gia thì
là « quốc gia » ?
Trường hợp Palestine, Đài Loan… họ
cũng có lãnh thổ, dân chúng, có chính quyền và chính quyền này có khả năng
« giao dịch » với các nước trên thế giới, sao họ không là « quốc
gia » ?
Các tổ chức « ONG », hay
các « tập đoàn kinh tế » hiện nay, họ có tư cách pháp nhân trong
« Luật quốc tế », có « quan hệ » với các quốc gia, nhưng họ
đâu phải là quốc gia ?
Vì thế, Công pháp quốc tế hôm nay bổ
túc thêm hai đặc tính « độc lập – indépendant » và « có chủ quyền
– souveraineté » vào định nghĩa (điều kiện thành lập) « Quốc
gia » theo công ước Montévidéo.
Hai thực thể VNDCCH và VNCH được
khai sinh theo Hiệp định Genève 1954 và hiệp định này được quốc tế công nhận
(và bảo trợ).
Trong khoản 1954 và 1975 nước Việt
Nam bị phân chia theo hiệp định Genève thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17,
lần lượt mang tên : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Vĩ tuyến
17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về
chính trị hay lãnh thổ.
Nội dung Hiệp định Genève xác nhận
VN là nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất (được tái xác
nhận theo Hiệp định Paris năm 1973). Điều này thể hiện lên thực tế.
Trong khoảng thời gian từ 1954 đến
1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai
quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt Nam duy
nhất. Khối XHCN công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất. Nước này nhìn nhận
phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Quí vị nói rằng VNDCCH và VNCH là
« hai quốc gia độc lập, có chủ quyền ». Vậy quí vị thử đưa bằng chứng
cho biết quốc gia nào (trên thế giới này) đã cùng lúc công nhận hai quốc gia
VNCH và VNDCCH ?
Tôi có viết thư
gởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, khi thấy một số viên chức VN bị ảnh hưởng bởi
lập luận của quí vị, nội dung đại khái :
Trên tinh thần một
nước VN « độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ » của các
hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một
bên (VNCH hay VNDCCH), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam, chúng đều không có giá trị.
Công hàm 1958 của
ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định
1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.
Như thế, không cần phải bóp méo lịch
sử, không cần phải biện luận bằng những lý thuyết không còn hiệu lực (như lý
thuyết về quan hệ giữa « quốc gia và lãnh thổ » hoặc lý thuyết
« đáo hoàn – reversion »), để phản biện công hàm 1958 của ông Phạm
Văn Đồng cũng như chứng minh CHXHCNVN thụ đắc danh nghĩa chủ quyền HS.
Chỉ cần nhìn nhận một thực tế lịch
sử (đã bị chối bỏ từ nhiều thập niên nay). Đó là nhìn nhận hiệu lực của các hiệp
định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973. Công hàm 1958 (cùng với các hành vi của
VNDCCH có hiệu lực tương tự) trở nên không có hiệu lực.
Vấn đề còn lại chỉ là làm thế nào để
« kế thừa » danh nghĩa của VNCH.
Nhiều người có ý kiến : chỉ cần
đổi tên nước, đổi quốc kỳ, quốc ca… để trở thành VNCH thì mọi việc đều ổn thỏa.
Theo tôi thì chưa chắc. Những điều
đã viết ở trên, khi anh gọi người ta là « ngụy », là « giặc »,
là « bọn tay sai »… thì anh làm sao kế thừa ?
Bà Joële Nguyên Duy-Tân qua bài
« La représentation du VietNam dans les institutions spécialisées »[iii]
có đặt vấn đề :
« La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement
l'existence d'un Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N.
peut-elle succéder à une entité inexistante pour elle?
Tạm dịch : VNDCCH luôn cương
quyết phủ nhận sự hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức VNCH. CHXHCNVN có
thể kế thừa một thực thể mà họ đã quan niệm là không hiện hữu ?
Mặt khác, một câu hỏi đã đặt ở
trên : anh đã giết chết người ta thì anh có tư cách gì để kế thừa người
ta ?
Vì thế, việc đổi tên nước, đổi cờ
quạt này kia… là không thuyết phục.
Tôi đã đề nghị giải pháp « kế
thừa » thông qua chính sách « hòa giải dân tộc » sau đây. Đề nghị
này đã có từ hơn 10 năm nay. Xem ra sau gần 4 thập niên thống nhất đất nước, việc
kế thừa vẫn chưa muộn, nếu lãnh đạo CSVN muốn làm việc này.
Tức là, để trả lời một câu hỏi nhức
nhối, lẽ thường anh không thể « giết chết » người ta rồi « kế thừa »
người ta được. Nhưng trong phạm trù « quốc gia », việc này có thể thực
hiện, nếu người lãnh đạo có can đảm chính trị, (như đã thể hiện ở nội chiến
Nam, Bắc Mỹ).
Đó là phải « hòa giải dân
tộc ».
Biện pháp là :
Nhà nước CSVN bỏ tên nước, đặt lại
tên nước, thí dụ : Cộng Hòa Việt Nam, thay đổi quốc kỳ, quốc ca, hiến pháp…
thay đổi tất cả những gì dính líu đến VNDCCH và CHXHCNVN để lập một nền cộng
hòa mới, tổ chức bầu cử tự do, lập chính quyền thực sự của dân, do dân và vì
dân ; đoạn tuyệt với quá khứ sai lầm của VNDCCH.
Thể thức này nhằm đoạn tuyệt với di
sản của VNDCCH, tức đoạn tuyệt với công hàm 1958 cùng với những thái độ có thể
khiến VN bị vướng Estoppel hay Acquiescement.
Nhà nước mới, trên nền tảng dân chủ,
thảo luận về một bộ luật « hòa giải dân tộc », trong đó qui định phương cách phục
hồi danh dự cũng như việc đền bồi xứng đáng cho các thành phần quân nhân công
chức VNCH nạn nhân của chính sách học tập cải tạo. Lập ra điều luật cấm sử dụng
tiếng « ngụy » đối với những người thuộc chế độ cũ. Đền bồi cho các nạn nhân do
cải tạo công thuơng nghiệp, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới ; làm luật phục hồi
danh dự (cho người quá vãng) và đền bồi tương xứng cho nạn nhân của cộng sản
như vụ Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án « xét lại chống đảng »
v.v… Nếu những người này đã mất thì đề bồi cho con cháu của họ. Cho tu bổ các
nghĩa trang liệt sĩ, không phân biệt nam bắc, dân tộc kinh, thuợng, không phân
biệc cuộc chiến 1975, 1979 hay cuộc chiến với Kampuchia v.v…
Vấn đề « đền bồi » ở đây,
trước tình hình đất nước, có thể chỉ là một hình thức nào đó, « tượng
trưng » mà thôi. Để tránh những xáo trộn sâu xa trong xã hội.
Thể thức này nhằm « kế thừa »
danh nghĩa của VNCH.
Trên căn bản như thế VN đương nhiên
có chủ quyền tại HS và TS, như VNCH, từ đó mới có cơ sở giải quyết các tranh chấp
bằng một trọng tài quốc tế, phân định hải phận biển Đông với các nước
khác.
Trên tinh thần đó, với sự hưởng ứng
của toàn khối dân tộc, VN sẽ đứng ở thế mạnh, hay ở thế không ai có thể bắt nạt,
toàn dân một lòng chắc chắn đủ khả năng để tự bảo vệ lãnh thổ và hải phận của tổ
tiên để lại.
[i]
Monique Chemillier-Gendreau, « La Souveraineté sur les archipels Paracels
et Spratleys », nxb Harmattan, ISBN 2-7384-4061-4, tr 123.
[ii]
Nguyen Quoc Dinh, Patrick Daillier, Mathias Forteau, Alain Pellet - Doit International Public, L.G.D.J, 8e
Edition, tr 456.
[iii] Nguyen Duy Tan Joële. La
représentation du Viet-Nam dans les institutions spécialisées. In: Annuaire
français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419. doi :
10.3406/afdi.1976.1996 http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1976_num_22_1_1996
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.