Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm
1958 của Trung Quốc là một tuyên bố đơn phương về lãnh thổ và hải phận. Tuyên
bố này tương tự như tuyên bố đơn phương ngày 23-11-2013 của Trung Quốc về « vùng
nhận diện phòng không – ADIZ » ở vùng biển hoa Đông. Tuyên bố 1958 dựa
trên các công ước về Luật Biển 1958 (điều chỉnh lại năm 1996 theo Luật Biển
1982) trong khi Tuyên bố về ADIZ thì dựa theo tập quán quốc tế đã có từ sau Thế
chiến II.
Tuyên bố gồm 4 điều, nội dung phần quan trọng tóm lược như sau :
Điều 1 : Lãnh hải của TQ rộng 12 hải lý.
Điều này áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ TQ, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ
thuộc, đảo Bành Hồ và các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa
(Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)…
Điều 3 : Tất cả phi cơ, thuyền bè không
được phép của TQ thì không được xâm phạm vào không và hải phận của nước TQ.
Điều 4 : Nguyên tắc qui định ở điều 3 (và
2) được áp dụng cho cả HS và TS.
Tuyên
bố 4-9-1958 của Trung Quốc ghi rõ
Tây Sa và Nam Sa (tức HS và TS) thuộc về TQ (điểm 1).
Theo
thông lệ quốc tế, các tuyên bố đơn phương có hiệu lực pháp lý ràng buộc cho các
nước quan hệ, nếu các nước này không kịp thời lên tiếng phản đối hay bảo lưu
(về một khoản nào đó). Trường hợp Tuyên bố « Vùng nhận diện phòng
không » của TQ ngày 23-11-2013, các
nước Nhật, Nam Hàn, Mỹ, cùng nhiều nước khác… đã tức thì lên tiếng phản đối. Một
lẽ vì nó chồng lấn lên vùng nhận diện phòng không của Nhật và Nam Hàn đã thiết
lập từ lâu, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, sau đó vi phạm chủ quyền lãnh thổ
của hai nước này.
Ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm (công hàm
1958) ủng hộ tuyên bố của TQ nguyên văn như sau :
« Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. »
Tuyên bố này là một công khai, đơn
phương « ủng hộ » : Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
« tán thành » đồng thời cam kết « tôn trọng quyết định »
của Trung Quốc.
Nhiều tranh cãi chung quanh nội
dung (và hình thức) và tính ràng buộc pháp lý của công hàm 1958. Nó « tán thành »
việc gì và « tôn trọng » cái gì ? Ông Đồng có tư cách hay không
để ra một tuyên bố về lãnh thổ ? V.V…
Sau đây một số ý kiến của tác giả
về nội dung công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Tác giả quan niệm rằng, khi nào ta
biết sự thật về giá trị và hiệu lực của công hàm này, khi đó ta mới có thể hóa
giải nó. Vấn đề hóa giải thế nào, nội dung sẽ trình bày trong bài viết tiếp
theo.
1/ Công hàm 1958 là một « tuyên bố đơn phương » :
Nhiều người gọi « công hàm » 1958 của Phạm Văn Đồng là
« lá thư » của ông Đồng gởi cho ông Chu Ân Lai [1]. Thực ra việc gọi thế nào không quan
trọng, mà quan trọng là trên quan điểm quốc tế công pháp văn bản này có hiệu
lực pháp lý hay không ?
Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia
được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ [2] thông qua (từ nay gọi tắt là Nguyên
tắc Hướng dẫn) có nội dung :
Des déclarations formulées publiquement et
manifestant la volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de créer des
obligations juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit ainsi sont
réunies, le caractère obligatoire de telles déclarations repose sur la bonne
foi; les États intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur elles; ils
sont fondés à exiger que de telles obligations soient respectées.
Tạm dịch : Những tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ý
muốn tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ
pháp lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng buộc của các tuyên bố
này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên
bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng.
Khoản 5 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn :
5. Les déclarations unilatérales peuvent
être formulées par écrit ou oralement.
Tạm dịch : Các tuyên bố đơn phương có thể phát biểu bằng chữ viết
hay bằng lời nói.
Lá thư, hay « công hàm » của ông Đồng đã thể hiện một cách
công khai, có đăng tải trên báo chí hai nước Việt-Trung và được lưu trữ trong
hồ sơ ở LHQ. Nó là một « tuyên bố đơn phương ». Nội dung tuyên bố này
là « ghi nhận và tán thành » tuyên bố về hải phận của nước CHNDTH.
Khoản 2 của Nguyên tắc Hướng dẫn :
2. Tout État a la capacité d’assumer des
obligations juridiques par des déclarations unilatérales.
Tạm dịch : Mọi quốc gia đều có khả năng đảm nhận những ràng buộc
pháp lý qua các tuyên bố đơn phương.
Trên phương diện quốc tế công pháp, quốc gia gọi là VNDCCH có thể bị
ràng buộc do tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đông. Vấn đề cần tìm hiểu là bị
« ràng buộc » về những điều gì ?
2/ Công hàm không có hiệu lực vì người ký không có tư cách pháp nhân
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến đóng góp về công hàm 1958 thường hay nói
đến tư cách pháp nhân của ông Phạm Văn Đồng. Các ý kiến này cho rằng ông Đồng
không có tư cách để ra một tuyên bố liên quan đến vấn đề lãnh thổ.
TS Nguyễn Hồng Thao, trong cuốn « Le Vietnam et ses différends
maritimes dans la mer de Biển Đông[3] » nói về việc này như sau :
La note de Pham Van Dong ne contient aucune
renonciation explicite de la souveraineté sur les deux archipels au profit de
la Chine. La portée de cette note n’a pas non plus la valeur obligatoire de
renoncer à une souveraineté. En vertu de ses fonctions, un Premier Ministre n’a
pas la compétence de céder le territoire. Cela relève au pouvoir de l’Assemblée
Nationale de Viet Nam
Tạm dịch : Lá thư của Phạm Văn Đồng không hề nói đến việc từ bỏ
chủ quyền ở hai quần đảo cho TQ. Hiệu lực của lá thư này cũng không có giá trị
bắt buộc ở việc từ bỏ chủ quyền. Theo chức năng của ông này, một thủ tướng
không có thẩm quyền để nhượng lãnh thổ. Đây là thẩm quyền thuộc về Quốc hội.
Về hiệu lực của công hàm 1958 sẽ nói ở dưới. Về tư cách pháp nhân, ý
kiến này không phù hợp với quan điểm Quốc tế Công pháp. Thật vậy, điều 4[4] của Nguyên tắc Hướng dẫn, những viên
chức nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao… là những
người có tư cách để ra một tuyên bố. Nguyên văn điều 4 :
4. Une déclaration unilatérale n’engage
internationalement l’État que si elle émane d’ une autorité ayant compétence à
cette fin. En vertu de leurs fonctions, les chefs d’État, les chefs de
gouvernement et les ministres des affaires étrangères sont habilités à formuler
de telles déclarations. D’autres personnes représentant l’État dans des
domaines déterminés peuvent être autorisées à engager celui-ci, par leurs
déclarations, dans les matières relevant de leur compétence.
Tạm dịch như sau : một tuyên bố đơn phương chỉ ràng buộc quốc gia
(vào các vấn đề thuộc phạm vi) quốc tế khi tuyên bố này phát xuất từ một quan
chức nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi đó. Với chức năng của họ, chủ tịch
nước, thủ tướng và bộ trưởng bộ ngoại giao (là những người) có quyền để thành
lập một tuyên bố như vậy. Các cá nhân khác đại diện cho quốc gia trong những
lãnh vực nhứt định có thể được phép gắn kết (quốc gia vào các vấn đề thuộc lãnh
vực quốc tế), qua tuyên bố của họ, trong các vấn đề thuộc thẩm quyền của họ.
Theo tinh thần điều 4 văn bản hướng dẫn này, ông Phạm Văn Đồng là thủ
tướng chính phủ nước VNDCCH, dĩ nhiên có tư cách và đầy đủ thẩm quyền để ra một
tuyên bố về một vấn đề thuộc phạm vi quốc tế.
Thí dụ dẫn từ hồ sơ CIJ về tư cách pháp nhân của người ra tuyên bố.
Trường hợp tranh chấp[5] giữa Mã Lai và Singapour về các
đảo Pedra Branca (tên Mã Lai là Pulau Batu Puteh), Middle Rocks và South
Ledge (quan trọng hơn cả là đảo Pedra Branca). Nội vụ được đưa ra Tóa
án Công lý Quốc tế (CIJ) vào tháng 2 năm 2003 và được phân xử ngày 23 tháng 5
năm 2005.
Trước tòa, theo các chứng cớ lịch sử, Mã Lai đã chứng minh được chủ
quyền lịch sử của mình ở đảo Pedra Branca, từ thời mới lập quốc (vương
quốc Johor, thế kỷ 15) cho tới năm 1850. Trong khi Singapour, được
tiểu vương Johor nhượng cho Công ty Đông Ấn thuộc Anh vào ngày 02 tháng 8 năm
1824, lãnh thổ bao gồm tất cả các đảo trong vòng 10 hải lý. Trong khi đó
đảo Pedra Branca cách Singapour đến 24 hải lý. Nhưng trong một khoảng
thời gian dài, từ năm 1850, vương quốc Johor (quốc gia tiền nhiệm Mã Lai) đã
không hành sử chủ quyền của họ tại đảo này. Khi người Anh ở Singapour cho xây
một ngọn hải đăng trên đảo năm 1850 thì không gặp sự phản đối nào của vương
quốc Johor. Mặt khác, nhân dịp trả lời lá thư của Singapour về chủ quyền
đảo Pedra Branca năm 1953, viên Bộ trưởng lâm thời Bộ ngoại giao
vương quốc Johor viết công hàm xác nhận đảo Pedra Branca « không
thuộc chủ quyền Johor ». Mặc dầu phía Mã Lai phản đối rằng viên bộ trưởng
kia không có thẩm quyền để tuyên bố về một vấn đề « lãnh thổ ». Nhưng
tòa đã bác lý lẽ này vì cho rằng tuyên bố đó không có ý nghĩa của một tuyên bố
về lãnh thổ mà chỉ là ý kiến của vương quốc Johor về chủ quyền đảo Pedra
Branca.
Công hàm 1953 của vương quốc Johor tương tự với trường hợp công hàm
1958 của Phạm Văn Đồng. Đó không phải là một kết ước về lãnh thổ mà chỉ là ý
kiến của nước VNDCCH về quyết định của nước CHNDTH (về lãnh thổ và hải phận của
TQ). Công hàm 1958 không hề là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền. Tranh chấp Hoàng
Sa bắt đầu từ năm 1909, khi Trung Quốc lên tiếng đòi chủ quyền quần đảo. Lãnh
đạo VNDCCH không thể không biết điều này.
(Ở thí dụ này ta cũng thấy một nước, do thái độ của chính phủ nước này,
có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở một vùng lãnh thổ nào đó. Trường hợp VN và TQ
tại hai quần đảo HS và TS, ta dễ dàng chứng minh VN có chủ quyền lịch sử tại
hai quần đảo này, thông qua các tấm bản đồ, hay các sử liệu lịch sử, do chính
từ TQ thành lập. Nhưng nếu trong một thời gian dài, nhà nước VN có những tuyên
bố, hay các động thái tương đương với sự « đồng thuận –
acquiescement », các hành vi này được xem là tự nguyện « từ bỏ chủ
quyền », VN có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở các nơi này. Điều này có ý
nói rằng vấn đề chủ quyền lịch sử là quan trọng nhưng thái độ của nhà nước đối
với vùng lãnh thổ đó còn quan trọng hơn.)
Ta cũng có thể dẫn từ các bản án mẫu của CIJ về các tuyên bố đơn phương
mà vai trò của người tuyên bố, cũng như hoàn cảnh của tuyên bố bị đặt lại,
nhưng vẫn không thể hủy bỏ hiệu lực của tuyên bố.
Trường hợp quốc vương Jordanie tuyên bố từ bỏ vùng lãnh thổ Cisjordanie
là một thí dụ khác. Ngày 31 tháng 7 năm 1988 quốc vương Jordanie đọc tuyên bố
trước thần dân của ông về việc từ bỏ mọi liên hệ và thẩm quyền chính thức của
Jordanie trên vùng lãnh thổ Cisjordanie. Tuyên bố này trái với tinh thần hiến
pháp của Jordanie, vì nhà vua không có thẩm quyền quyết định về phạm vi lãnh
thổ. Tuyên bố của quốc vương Jordanie không hề nhắm đến một quốc gia nào (không
phải là tuyên bố đơn phương) đồng thời vừa vi hiến. Dầu vậy hiệu lực của tuyên
bố cũng đã được áp dụng trên thực tế, dân tộc Palestine chưa được thực sự độc
lập cũng như quốc gia Palestine chưa được chính thức thành hình, nhưng vùng
lãnh thổ Cisjordanie thực sự không còn thuộc thẩm quyền của Jordanie.
3/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì vi hiến.
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến ở VN gần đây cho rằng chiếu theo hiến pháp
VN, ông Đồng không có tư cách để tuyên bố về một vấn đề liên quan đến chủ quyền
lãnh thổ. Thật vậy, theo hiến pháp của VN hiện tại, hay trong thời kỳ ông Đồng
làm thủ tướng, vấn đề phân định biên giới phải được thể hiện bằng một kết ước,
có sự đồng thuận giữa hai nước, phải được quốc hội thông qua. Ý kiến của TS
Nguyễn Hồng Thao đã dẫn ở trên trong chừng mực cũng nằm trong chiều hướng này.
Nhưng tuyên bố 1958 của ông Đồng không phải là một « tuyên bố về
lãnh thổ », có mục tiêu làm thay đổi lãnh thổ nước VNDCCH.
Xét nội dung của cả hai bản tuyên bố. Bản tuyên bố của TQ trước hết là
một tuyên bố về chủ quyền, theo đó TQ khẳng định ý chí của họ về chủ quyền của
TQ tại Đài Loan, Bành Hồ… (đang dưới quyền kiểm soát của phe Quốc dân đảng do
Tưởng Giới Thạch lãnh đạo). Sau đó là tuyên bố về hệ thống đường cơ bản và bề
rộng lãnh hải 12 hải lý (điều 2). Điều 3 khẳng định quyền tài phán của TQ tại
vùng không gian và vùng nước thuộc lãnh hải TQ. Điều 4 qui định các đảo Tây Sa
và Nam Sa (tức HS và TS) cùng các đảo khác của TQ đều có qui chế xác định ở
điều 1 và điều 2.
Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng là tuyên bố ủng hộ tuyên bố của TQ về
lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của nước này. Thực ra việc làm này không
cần thiết. Bởi vì, cũng như tuyên bố của các nước khác, nếu nội dung tuyên bố
của TQ không có điều gì phải phản đối, tự động tuyên bố này có hiệu lực đối với
tất cả các nước trên thế giới. (Tuyên bố của TQ bị Hoa Kỳ phản đối vì hệ thống
đường cơ bản lấn biển khá xa).
Trường hợp Tuyên bố vùng nhận diện phòng không của Trung Quốc vừa qua
cho ta thấy việc này.
Tức là, có hay không có tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng, nếu VN
không lên tiếng phản đối hay bảo lưu về một điều gì đó liên quan đến nội dung
tuyên bố của TQ, tự động tuyên bố này có hiệu lực pháp lý.
Tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không phải là một tuyên bố về
« lãnh thổ » mà là một tuyên bố về « lập trường » của
VNDCCH đối với những đòi hỏi của TQ về lãnh thổ và hải phận. Vì vậy tuyên bố
này không vi hiến.
Dầu vậy, theo tập quán quốc tế, một tuyên bố đơn phương nếu đi ngược
lại tinh thần hiến pháp của quốc gia tuyên bố, hiệu lực của tuyên bố vẫn có thể
cao hơn hiến pháp của quốc gia. Tuyên bố đơn phương không phải là một văn bản
« hành chánh » thuộc phạm trù quốc gia mà là một văn bản (hay hành
vi) thuộc phạm trù quốc tế. Một văn bản hành chánh chịu chi phối của luật quốc
gia nhưng một tuyên bố đơn phương (liên quan đến một vấn đề quốc tế) chịu chi
phối của luật pháp quốc tế.
Thí dụ sau đây cho thấy những rắc rối đưa đến từ việc mâu thuẩn giữa
luật quốc nội và luật quốc tế về tuyên bố đơn phương.
Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie
gởi bộ Ngoại giao Venezuela về lập trường của Colombie về chủ quyền quần đảo
Los Monjes[6]. Công hàm này xác định chủ quyền của
Venezuela tại quần đảo Los Monjes.
Năm 1971, Ủy ban Quốc gia Colombie nhận được một khiếu nại cho rằng
công hàm 1952 vi hiến vì các vấn đề thuộc chủ quyền lãnh thổ phải được thể
hiện bằng một hiệp ước, và phải được quốc hội thông qua. Thực tế là công hàm
của Bộ ngoại giao có làm thay đổi « biên giới » nước Colombie, vì
trực tiếp nhìn nhận quần đảo Los Monjes thuộc Venezuela. Tháng 3 năm 1971 Ủy
ban Quốc Gia Colombie phán xét rằng Ủy ban không có thẩm quyền để hủy bỏ công hàm
1952 bởi vì đây là một văn bản thuộc phạm vi quốc tế. Một văn bản quốc tế thì
phải áp dụng Quốc tế Công pháp. Tháng 4 năm 1971, phán quyết này lại khiếu nại
lên Ủy ban Quốc Gia. Lần này lý lẽ phía khiếu nại cho rằng phán quyết không phù
hợp với hiến pháp Colombie trong các vấn đề liên quan đến các văn bản quốc tế.
Bên khiếu nại nhấn mạnh, để tuyên bố có hiệu lực, ý chí của hai quốc gia cần
phải được thể hiện. Tức là, quan điểm của hiến pháp Colombie thì không công
nhận hiệu lực các tuyên bố đơn phương mà chỉ nhìn nhận các hết ước có tính qui
ước (có sự đồng thuận của hai bên).
Điều ghi nhận ở đây, khác với hiến pháp của phần lớn các quốc gia khác,
hiến pháp Colombie không nhìn nhận « tuyên bố đơn phương » là một văn
bản quốc tế. Một văn bản quốc tế, theo họ, phải có sự đồng thuận của hai bên.
Trong trường hợp chủ quyền quần đảo Los Monjes, phải xác định bằng một hiệp
định.
Vấn đề quần đảo Los Monjes được đưa lên Ủy ban Hiến Pháp quyết định. Ủy
ban này cũng từ khuớc vì cho rằng không có thẩm quyền (23-5-1975). Cuối cùng,
ngày 20-10-1992, Ủy ban Quốc gia phán quyết : Công hàm ngày 22 tháng
11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela là
không có gia trị.
Nhưng dường như hành động của Ủy ban Quốc gia Colombie chỉ nhắm đến
việc giải quyết trong nội bộ Colombie, để xoa dịu thành phần chống đối. Vì trên
thực tế, hiện nay nhà nước Colombie công nhận chủ quyền của Venezuela tại quần
đảo Los Monjes qua việc phân định hải phận giữa hai nước. Việc tranh chấp hai
bên là vùng nước chung quanh Los Monjes, phía Colombie chủ trương các đảo này
có hiệu lực giới hạn trong khi phía Venezuela đòi hỏi vùng biển phía ngoài các
đảo, có đầy đủ hiệu lực.
3/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc
tế.
Có ý kiến cho rằng công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của phía
TQ vi phạm luật quốc tế. Ý kiến này cho rằng tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc
tế vì hệ thống đường cơ bản của TQ không phù hợp với Luật quốc tế về Biển 1958.
Theo khoản 8 bản Nguyên tắc Hướng dẫn :
8. Une déclaration unilatérale en
conflit avec une norme impérative du droit international général est nulle.
Tạm dịch : Một tuyên bố đơn phương mâu thuẩn với một nguyên tắc
bắt buộc của luật quốc tế thì nó không có giá trị.
Nếu tuyên bố này mâu thuẩn với luật Quốc tế thì tuyên bố này không có
giá trị. Dĩ nhiên công hàm 1958 cũng không có giá trị.
Ta thấy qui ước về đường cơ bản trong Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp
giáp 1958 không khác nhiều nội dung bộ Luật biển 1982. Hệ thống đường cơ bản
của TQ từ năm 1958 đến nay không thay đổi. Trong chừng mực, một số đoạn trong
hệ thống đường cơ bản của TQ khá xa bờ, nhưng việc lấy các đảo cận biển để làm
điểm cơ bản thì việc này không mâu thuẩn với Luật quốc tế về Biển. Tập quán này
đã được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng (kể cả VN). Tuyên bố về đường cơ
bản của TQ bị các nước (như Hoa Kỳ) phản đối. Nhưng nói rằng nó không có
giá trị trên toàn bộ là không thuyết phục. Bởi vì, nếu bị chống đối, TQ (hay VN
cũng như các nước có chung trường hợp), có thể sửa đổi để phù hợp với Luật biển
1982.
Vì thế khi cho rằng tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không có giá
trị vì ủng hộ một tuyên bố vi phạm luật quốc tế là không có căn cứ.
4/ Nội dung Công hàm 1958 :
Đây mới là điều quan trọng. VN có thể bị ràng buộc pháp lý ở các điểm
nào trong nội dung bản tuyên bố 1958 ?
Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn :
7. Une déclaration unilatérale n’entraîne
d’obligations pour l’État qui l’a formulée que si elle a un objet clair et
précis. En cas de doute sur la portée des engagements résultant d’une telle
déclaration, ceux-ci doivent être interprétés restrictivement. Pour interpréter
le contenu des engagements en question, il est tenu compte en priorité du texte
de la déclaration ainsi que du contexte et des circonstances dans lesquelles elle
a été formulée.
Tạm dịch : Một tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng ràng buộc quốc
gia (đã phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên bố) có một mục đích rõ ràng và
cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ cam kết của tuyên bố, thì văn
bản phải được giải thích một cách hạn chế. Để giải thích nội dung của những cam
kết này, ta phải đặt ưu tiên cho văn bản của tuyên bố cũng như bối cảnh và
trường hợp mà tuyên bố được thể hiện.
Bà Monique Chemillier-Gendreau [7] giới hạn hiệu lực của công hàm 1958
ở « bề rộng lãnh hải ». Bà viết như sau :
« La déclaration de Pham Van Dong se
tient strictement, il est vrai, à la reconnaissance de la largeur de la mer
territoriale chinoise. Il est donc inexact de soutenir que le Viet Nam aurait
ainsi « réaffirmé sa reconnaissance de la prétention chinois » sur
les archipels ».
Tạm dịch : Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ hạn chế ở việc nhìn
nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Cho rằng Việt Nam « tái xác định
việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc » ở các quần đảo là điều không
đúng.
TS Nguyễn Hồng Thao[8] cũng có cái nhìn tương tự, công hàm
chỉ nhằm mục đích công nhận lãnh hải 12 hải lý. Ông cũng cho rằng công hàm có
giá trị về chính trị hơn là pháp lý :
La note exprimant un engagement plus
politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes
pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de
soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de
la mer territoriale.
Tạm dịch : Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp
lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ
tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng
bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
« Xem nguyên văn bức thư của ông Phạm
Văn Đồng người ta thấy bức thư chỉ có một nội dung là ủng hộ Trung Quốc quy
định hải phận rộng 12 hải lý và hứa sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm phải tôn trọng quy định 12 hải lý.
Nội dung đó không hề nói đến vấn đề lãnh
thổ, càng không nói gì đến vấn đề các quần đảo. Nội dung chỉ có thế, sao lại
xuyên tạc là “sự công nhận” Hoàng Sa là của Trung Quốc? »
Trong bài phỏng vấn tiến sĩ Balazs Szalontai của BBC[10], ta cũng tìm thấy ý nghĩa khá giống như
vậy :
Dẫu vậy, ông (Phạm Văn Đồng) có vẻ đủ thận
trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối
với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về
lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn
bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì
tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy
tắc này.
Chiếu theo tinh thần khoản 7 của Nguyên tắc Hướng dẫn, nếu nội dung văn
bản không rõ rệt (việc nhà nước VNDCCH sẽ “ghi nhận và tán thành” cái gì) thì
việc diễn giải nội dung tuyên bố này phải giải thích một các hạn chế. Đó là
điều mà quí vị Monique Chemillier-Gendreau, Nguyễn Hồng Thao, Lưu Văn Lợi
và tiến sĩ Balazs Szalontai đã diễn giải.
Nhưng văn bản có hai đoạn văn : Đoạn 1 « ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
quyết định về hải phận của Trung Quốc ». Đoạn 2 : chỉ thị cho các cơ quan
nhà nước triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Các vị này chỉ nói về đoạn văn thứ hai mà không xem xét đoạn văn thứ
nhứt của công hàm 1958.
Nội dung của tuyên bố 4-9-1958 về hải phận của TQ là một tuyên bố khẳng
định chủ quyền về lãnh thổ.
« Ghi nhận » và « tán thành » ở đây có
nghĩa là VNDCCH tán thành quyết định của TQ mở rộng lãnh hải 12 hải lý trên các vùng lãnh thổ trong danh sách mà TQ đã liệt
kê trong Tuyên bố. « Triệt để tôn trọng » là VNDCCH tôn trọng
« triệt để tôn trọng » quyết định lãnh hải 12 hải lý trên các vùng
lãnh thổ của TQ có liệt kê trong bản tuyên bố. Trong đó bao gồm Hoàng Sa và
Trường Sa.
Ông Phạm Văn Đồng, tác giả công hàm 1958, đã có ý kiến về công hàm
này. Nhà báo Frank Ching trong bài “Paracel Islands Dispute[11]” trên Far Eastern Economic Review ngày 10-02-1994
ghi lại lời của Phạm Văn Đồng về nguyên nhân và nội dung công hàm 1958. Ông
Đồng nói ngắn gọn, nhưng rõ rệt :
"Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi
đã phải nói như vậy".
Cũng trong bài báo của Frank Ching nói trên, có ghi lại lời ông Nguyễn
Mạnh Cầm :
"Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có
tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó,
theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía
nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của
chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng
quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ,
nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn
trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước
tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp
đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên,
tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên
bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó
trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.”
Như thế công hàm 1958 không phải chỉ “ủng hộ” bề rộng lãnh hải 12 hải
lý như bà Monique Chemillier-Gendreau,TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi
hay tiến sĩ Balazs Szalontai đã nói. Những người trong cuộc, ông Phạm Văn
Đồng và ông Nguyễn Mạnh Cầm, đã nhìn nhận nội dung công hàm 1958 là công nhận
chủ quyền của TQ ở HS và TS. Ông Phạm Văn Đồng biện hộ “nói vậy” vì lúc đó là
“thời kỳ chiến tranh”. Ông Cầm thì biện hộ vì HS và TS thuộc miền Nam quản lý,
việc ủng hộ là “cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh
bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc”.
Nội dung công hàm 1958 sẽ rõ rệt hơn, nếu quí vị học giả Monique
Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ
Balazs Szalontai xem xét thái độ của VNDCCH từ năm 1954 cho đến năm 1975 về hai
quần đảo HS và TS. Ta sẽ tìm thấy nhiều bằng chứng nhà nước VNDCCH tôn trọng
nội dung công hàm 1958. Trường hợp các bản đồ in sau 1958 một số có ghi HS và
TS dưới tên Tây Sa và Nam Sa đồng thời ghi chú thuộc TQ. Hay các bài báo đăng
trên báo Nhân Dân, xác định vùng biển, vùng trời HS thuộc TQ v.v… Các động thái
này cho thấy chính phủ VNDCCH nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS[12]. Và đó cũng là mục đích của công hàm 1958.
« Néanmoins, son silence devant
l’affirmation de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme
un acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration
relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan. »
Tạm dịch : dầu vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước sự
khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một sự
đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng
chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân.
Tuy đoạn văn này nối liền với đoạn văn dẫn trên của học giả Monique
Chemillier-Gendreau nhưng không thấy học giả VN nào nói tới.
Thử xét thêm lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm. Vì HS và TS
do VNCH quản lý do đó công hàm 1958 không hiệu lực. Ở điểm này, học
giả Monique Chemillier-Gendreau cũng có cái nhìn tương tự: “người ta
không thể cho cái mà người ta không có”.
Tuy nhiên, theo nội dung Hiệp định Genève 1954, nước Việt Nam là duy
nhứt[14]. Trên thực tế, VN có hai vùng lãnh thổ do hai
chính phủ khác nhau về ý thức hệ lãnh đạo, nhưng trên quan điểm luật pháp quốc
tế nước VN chỉ có một. Ông Cầm không thể viện dẫn việc HS và TS do VNCH quản lý
thì có thể tuyên bố chủ quyền các quần đảo này của nước nào cũng được. Bởi vì,
HS và TS thuộc bên nào quản lý thì chúng cũng thuộc về một nước Việt Nam duy
nhứt. Khi chủ trương một quốc gia duy nhứt, hai nhà nước lãnh đạo hai vùng lãnh
thổ khác biệt, đều có bổn phận như nhau trong việc bảo toàn lãnh thổ, cho dù
phần lãnh thổ này do bên này hay do bên kia quản lý.
Mặt khác, lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm, cũng như của ông
Đồng, đã xóa bỏ lập luận “công hàm chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói
đến vấn đề chủ quyền” của các học giảMonique Chemillier-Gendreau, TS
Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai về nội dung
công hàm 1958. Nội dung công hàm bao gồm việc nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS
và TS.
Học giả Greg Austin[15], trong cuốn China Ocean’s Frontiers, có
ý kiến :
Of all the items of evidence presented by the PRC as proof of DRV
recognition of Chinese sovereignty over the Paracel Islands, the most
conclusive may be the note from the DRV Prime Minister supporting the PRC
territorial sea declaration. The note was a government to government
communication. And its subject was territorial sovereignty over, inter alia,
the Paracel Islands; and the DRV not only raised no objection to the PRC claim
but supported it.
Tạm dịch: Trong tất cả các
yếu tố do TQ đưa ra làm bằng chứng cho việc VNDCCH đã thừa nhận chủ quyền của
Trung Quốc trên Quần đảo Hoàng Sa, yếu tố có tính thuyết phục nhứt có thể nói
là công hàm của Thủ Tướng VNDCCH ủng hộ tuyên bố về lãnh hải của nước CHND TH.
Công hàm này là một văn kiện trao đổi giữa chính phủ với chính phủ. Chủ đề của
công hàm là chủ quyền lãnh thổ, trong đó có Quần đảo Hoàng Sa. Nước VNDCCH
không những đã không phản kháng tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà còn ủng hộ
nó.
5/ Về hoàn cảnh ra đời
công hàm 1958:
Hầu như các bài viết của
các học giả VN đều vịn vào lý do “chiến tranh”, lý do căng thẳng eo biển Đài
Loan ở thời kỳ đó, lý do hai nước VN và TQ là “đồng chí, anh em” trong khối xã
hội chủ nghĩa,… để biện hộ cho sự xuất hiện công hàm 1958. TS Nguyễn Hồng
Thao, trong sách đã dẫn[16], viết:
La note de Pham Van Dong a pour but de
satisfaire une demande de la Chine aux pays du camps socialiste en vue de la
soutenir dans sa lutte contre la politique poursuivie par des Américains dans
le détroit de Formose, qui menaçait la sécurité nationale à l’époque. La note exprimant
un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des
pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet
précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles
marins de la mer territoriale.
Tạm dịch : Lá thư của Phạm Văn Đồng có mục đích nhằm thỏa mãn việc yêu
cầu, nhắm đến các nước trong khối XHCN, nhằm ủng hộ TQ trong cuộc đấu tranh
chống lại khuynh hướng chính trị theo đuổi của Hoa Kỳ ở eo biển Đài Loan, thời
kỳ đó đã đe dọa an ninh quốc gia nước này. Lá thư biểu lộ một sự liên kết về
chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong khối
XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt ủng
hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
Trang web BBC[17] có tóm lược bài viết của “nhóm
phóng viên biển Đông” đăng trên tờ Đại Đoàn Kết, nội dung như sau:
bối cảnh của bản Công hàm 1958 gửi Thủ
tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc là thời điểm "có nhiều chuyển biến phức
tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật
pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo
biển Đài Loan".
Trong bối cảnh đó, bản công hàm được giải
thích là "đơn giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp", tức
"chỉ là những tuyên bố mang tính chính trị và ngoại giao chứ hoàn toàn
không có ý nghĩa pháp lý".
trước hết là về bối cảnh đưa ra công hàm mà
năm 1958 ông Phạm Văn Đồng đã ký. Thứ nhất là lúc đó quan hệ Việt Nam-Trung
Quốc vẫn còn như là anh em, vừa là đồng chí vừa là anh em. Năm 1949, Quân Giải
phóng Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ của Trung
Quốc, sau đó trao trả lại cho Trung Quốc. Thế rồi sang năm 1957 Trung Quốc
chiếm lại từ tay một số lực lượng khác đảo Bạch Long Vĩ và sau đó đã trao trả
lại cho Việt Nam.
Muốn nói tới câu chuyện đó để làm gì? Đấy
là lúc đó hai nước tình cảm rất là chặt chẽ với nhau.
Đã ghi ở trên, ông Đồng giải thích bối cảnh ra đời công hàm :
"Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi
đã phải nói như vậy".
Lời giải thích này đã xóa đi tất cả những lý lẽ « vì hoàn
cảnh » mà các học giả đưa ra để cố gắng hóa giải hiệu lực công hàm 1958.
Bởi vì ai gây chiến tranh ? Dĩ nhiên là phía VNDCCH. Chiến tranh không
phải là tình huống bắt buộc. Chỉ cần phía VNDCCH ngưng chiến tranh thì ông Đồng
sẽ không phải « nói như vậy ». Tức đã không ký công hàm, đã không
nhượng trên giấy tờ chủ quyền HS và TS cho TQ.
Vậy thì ai đã tạo ra cuộc
chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam,
ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt,
Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến
tranh.
Trong khi bối cảnh thực sự mà tuyên bố của TQ ra đời, theo
TS Balazs Szalontai :
BBC:Theo nhận định của ông, lá thư của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã được viết trong hoàn cảnh nào?
Tiến sĩ Balazs Szalontai: Trước tiên,
ta nói về tuyên bố của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 và các hiệp định được ký sau đó năm 1958. Lẽ dễ
hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn
có tiếng nói về cách giải quyết những vấn đề đó. Vì lẽ đó ta có tuyên bố của
Trung Quốc tháng Chín 1958.
Điều này tác giả cũng đã nói ở phần trên, đây mới là bối cảnh đúng đắng
về hoàn cảnh ra đời bản tuyên bố của TQ. Sau khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày
29-4-1958 thông qua bốn Công ước [20] gồm : Công ước về lãnh hải và vùng
tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các
nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Các quốc gia thuộc
LHQ có thể ký nhận các công ước này ở thời điểm giới hạn là 31-10-1958. Vì
không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của TQ là cần thiết để khẳng
định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận.
Điều đáng trách là các học giả VN không một người nào nhắc đến Nghị
định thư nói về thể thức giải quyết tranh chấp cũng được Hội nghị LHQ thông qua
cùng lúc với 4 công ước. Nghị định thư ghi rõ thể thức hòa giải trong các
trường hợp có mâu thuẩn quyền lợi giữa các nước trong khi áp dụng các công ước.
Dĩ nhiên ta thấy VN và TQ có mâu thuẩn về chủ quyền HS và TS. Tranh chấp này
bắt đầu từ năm 1909, phía VNDCCH không thể nói là mình không biết.
Như thế, việc dựa vào các lý do « hoàn cảnh » này kia, tình
đồng chí anh em, tình trạng « chiến tranh »… để giảm thiểu hiệu lực
công hàm 1958 (theo Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn) là điều hoàn toàn
không thuyết phục.
« Hoàn cảnh » đúng, là bối cảnh Hội nghị LHQ 1958 về luật
Biển, đòi hỏi VN phải có « ý kiến » về tuyên bố của TQ. Nguyên tắc
một quốc gia VN duy nhứt buộc các chính phủ ở hai vùng lãnh thổ đều có
trách nhiệm như nhau về lãnh thổ. Một vùng lãnh thổ thuộc bên nào quản lý cũng
thuộc về quốc gia VN duy nhứt. Thay vì phải ra tuyên bố bảo lưu chủ quyền của
mình ở HS và TS, VNDCCH lại ra công hàm công nhận tuyên bố của TQ.
Vịn vào hoàn cảnh « tình trạng chiến tranh », nhưng bên gây
chiến là phía VNDCCH. Chỉ cần bên này ngừng chiến thì công hàm 1958 sẽ không
hiện hữu.
Vịn vào lý do « đồng chí anh em » lại càng không thuyết phục.
Trên quan điểm quốc tế công pháp, tình « đồng chí anh em » chưa bao
giờ được một bên tranh chấp vịn vào để được hưởng trường hợp giảm khinh.
Tác giả dẫn ra thí dụ sau đây, cho thấy một lời nói “qua lại” bình
thường giữa hai viên chức quốc gia, xảy ra trong một buổi gặp gỡ không chính
thức, nó cũng có giá trị ràng buộc pháp lý. Đó là trường hợp tuyên bố của Bộ
trưởng bộ Ngoại giao Na Uy, ông Ihlen[21], về chủ quyền của Đan Mạch ở Groenland
ngày 22-7-1919.
Trong dịp gặp gỡ giữa hai thủ tướng hai nước Na Uy và Đan Mạch. Ông bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Đan Mạch nói rằng quốc gia Đan Mạch không quan tâm đến
vùng lãnh thổ Spitzberg, chính phủ của ông sẽ không phản đối việc Na Uy hành sử
chủ quyền ở vùng đất này. Ông nói tiếp rằng quốc gia Đan Mạch mong muốn được mở
rộng thẩm quyền về kinh tế và chính trị trên tòan vùng Groenland. Ông hy vọng
việc này không bị Hoa Kỳ cũng như Na Uy phản đối.
Trả lời, Thủ tướng Na Uy,
ông Ihlen nói rằng : « the Norwegian Government would not make any
difficulties in the settlement of this question ».
Tạm dịch: Chính phủ Na Uy
sẽ không làm một khó khăn nào trong việc giải quyết vấn đề này.
Đến khi tranh chấp
Groenlan giữa Na Uy và Đan Mạch được đưa ra Tòa Án Công lý Quốc tế (CIJ) phân
giải thì « lời nói » của ông Ihlen được tòa nhìn nhận là một
« tuyên bố đơn phương », có hiệu lực ràng buộc pháp lý. Tuyên bố này
nổi tiếng, trở thành một trường hợp nghiên cứu cho Luật quốc tế, được đặt tên
là « Tuyên bố Ihlen ».
Tuyên bố Ihlen có thể so
sánh với trường hợp « lời nói » của ông Ung Văn Khiêm, thứ trưởng bộ
Ngoại giao VNDCCH, nhân dịp gặp gỡ các viên chức ngoại giao TQ năm 1956.
Ông Ung Văn Khiêm có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại
Việt Nam như sau : chiếu theo tài liệu VN thì HS và TS thuộc về TQ. Ông Lê Lộc,
Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào : Theo sử liệu VN thì HS và TS
thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai
năm 1980 đã có đăng lại trong bài « Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung
Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa ».
[2] Texte
adopté par la Commission du droit international à sa cinquante-huitième
session, en 2006, et soumis à l’Assemblée générale dans le cadre de son rapport
sur les travaux de ladite session (A/61/10). Le rapport, qui contient également
des commentaires sur le projet d’articles, sera reproduit dans l’Annuaire de la
Commission du droit international, 2006, vol. II(2).
[3] Nguyễn Hồng
Thao, « Le Vietnam et ses différends maritimes dans la mer de Biển
Đông », Edition A. Pedone, ISBN 2-233-00451-5, trang 251.
[5] Souveraineté
sur Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South Ledge
(Malaisie/Singapour),arrêt, C.I.J. Recueil 2008, p. 12. ISSN 0074-4441 ;
ISBN 978-92-1-071046-6
[7] Monique
Chemillier-Gendreau – La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys –
NXB Harmattan 1996, page 122-123.
[12] Xem thêm
bài viết của cùng tác giả : « Nhân nói chuyện về hiệu lực pháp lý của
các bản đồ » https://www.facebook.com/notes/nh%C3%A2n-tu%E1%BA%A5n-tr%C6%B0%C6%A1ng/nh%C3%A2n-n%C3%B3i-chuy%E1%BB%87n-v%E1%BB%81-hi%E1%BB%87u-l%E1%BB%B1c-ph%C3%A1p-l%C3%BD-c%E1%BB%A7a-c%C3%A1c-b%E1%BA%A3n-%C4%91%E1%BB%93/448369548536726
[14] Xem thêm
bài « Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa :
Thử bàn về tính liên tục và sự kế thừa giữa các « quốc gia » Việt Nam
sau năm 1945 » của cùng tác giả. https://www.facebook.com/notes/nh%C3%A2n-tu%E1%BA%A5n-tr%C6%B0%C6%A1ng/v%E1%BA%A5n-%C4%91%E1%BB%81-ho%C3%A0ng-sa-v%C3%A0-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-sa-th%E1%BB%AD-b%C3%A0n-v%E1%BB%81-t%C3%ADnh-li%C3%AAn-t%E1%BB%A5c-v%C3%A0-s%E1%BB%B1-k%E1%BA%BF-th%E1%BB%ABa-gi%E1%BB%AFa-c%C3%A1c-qu%E1%BB%91/441347479238933
[15] Đoạn trích
dẫn này do ông Trúc Lê đưa lên trên Net.
[21] Nguồn :
Nations Unies A/CN.4/557. Commission du droit international.
Cinquante-septième session. Huitième rapport sur les actes unilatéraux de
l’État. Par Mr Víctor Rodríguez Cedeño, Rapporteur spécial.
[23] Xem bài
« Việt Nam cần điều chỉnh lại chiến lược biển Đông » của cùng tác
giả. https://www.facebook.com/notes/nh%C3%A2n-tu%E1%BA%A5n-tr%C6%B0%C6%A1ng/vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BA%A7n-%C4%91i%E1%BB%81u-ch%E1%BB%89nh-l%E1%BA%A1i-chi%E1%BA%BFn-l%C6%B0%E1%BB%A3c-bi%E1%BB%83n-%C4%91%C3%B4ng-1/220749531298730
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.