Sẽ là quá sớm để nói về thành bại
của Việt Nam tại Biển Đông trước thách thức của Trung Quốc, khi nước này đặt
giàn khoan khổng lồ 981 trên thềm lục địa của VN, cách đảo Lý Sơn trên trăm hải
lý.
Trên quan điểm thuần túy chiến
lược, có lẽ phía Trung Quốc đã tính toán sai mà việc này có thể mở ra cho VN
một cơ hội bằng vàng để giải quyết nhiều khó khăn nội bộ. Trong quan hệ ngoại
giao, sự do dự của VN về việc lựa chọn đồng minh chiến lược - Trung Quốc hay Mỹ
- sẽ sớm được quyết định. Hệ quả điều này sẽ đi đôi với việc dân chủ hóa chế
độ. Trung Quốc sẽ mất một đồng minh (đúng ra là đàn em) tin cậy đồng thời tạo
ra một quốc gia thù địch quan trọng. Trong khi việc tranh chấp lãnh thổ với
Trung Quốc, về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, đã đông lạnh từ tháng giêng năm
1974 cho đến nay, thì được hâm nóng lại.
Tình hình của Việt Nam hôm nay
không khác tình trạng của Đài Loan sau khi bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi tại Liên
Hiệp Quốc năm 1971, bị cô lập toàn diện. Chiếc ghế đại diện quốc gia Trung Hoa tại
Hội đồng Bảo An LHQ dời về Bắc Kinh, Đài Loan trở thành một « tỉnh »
của Trung Quốc. Tiếp theo sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn 1975, Đài Loan mong
manh như trứng để đầu cối đá, lục địa có thể đem quân « giải phóng »
đảo quốc này bất kỳ lúc nào mà không có sự can thiệp của Hoa Kỳ.
(Khi Hoa Kỳ nhìn nhận Bắc Kinh là
chính quyền duy nhất đại diện Trung Quốc, Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc, thì
mặc nhiên nhìn nhận « vấn đề Đài Loan » thuộc về « nội bộ »
của Trung Quốc. Nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ nước khác là một trong
những điều cơ bản của Hiến chương LHQ.)
Khúc quanh chiến lược Đài Loan chỉ
đến vào năm 1979. Sau thất bại quân sự về « bài học » cho tiểu bá
Việt Nam, nhà cầm quyền Bắc Kinh lại chịu một sự thất bại khác về ngoại giao lớn
lao, mà việc này ít ai nói tới. Đó là việc Trung Quốc đã không thành công ngăn
cản được thuợng viện Hoa Kỳ thông qua dự luật Taiwan Relations Act.
Luật « Taiwan
Relations Act » là tác phẩm của kiều dân Đài Loan sống tại Hoa Kỳ. « Lobby »
của kiều dân Hoa tại Mỹ lại rất mạnh. Nhờ vận động hành lang chính trị, thuợng
viện HK thông qua dự luật « Taiwan Relations Act » ngày 10-4-1979,
theo đó HK chủ trương việc giải quyết « vấn đề Đài Loan » bằng phương
tiện hòa bình (HK tôn trọng ý nguyện, tức sự lựa chọn chính trị của dân Đài Loan), đồng thời cho phép chính
quyền Dân Quốc được mua các loại vũ khí của HK để tự vệ. Đổi lại, chính quyền
độc tài của Quốc Dân Đảng hứa hẹn dân chủ hóa Đài Loan.
Quá trình dân chủ hóa bắt
đầu từ thập niên 80, được sự giúp đỡ quan trọng (làm chất xúc tác) của các học
giả thuộc Harvard. Những người này đã tổ chức (trong khuôn viên đại học
Harvard) những cuộc tiếp xúc giữa những người ngoài đảng (đảng ngoại, tức không
phải là đảng viên Quốc Dân đảng) với các nhân vật lãnh đạo Dân Quốc. Quá trình
dân chủ hóa kết thúc vào những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3.
Do đó Đài Loan, mặc dầu bị
cô lập (hầu như) toàn diện về ngoại giao, nhưng về chính trị và quân sự lại
được sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ và các nước dân chủ khác trên thế giới.
Trường hợp Việt Nam hôm
nay, mặc dầu có quan hệ ngoại giao với (tất cả) các nước trên thế giới, nhưng
không có đồng minh tin cậy về chiến lược. Như đã thấy những ngày qua, biến cố
dàn khoan 981 mà TQ đặt tại thềm lục địa VN, cho thấy VN sẽ phải một mình đối
đầu với sự hung hãn của Trung quốc. Tức trong chừng mực, VN bị « cô lập »
như Đài Loan sau 1971.
Việt Nam hôm nay cũng mong
muốn được mua « vũ khí sát thuơng » của Hoa Kỳ, tương tự như Đài Loan
ngày trước, để « tự vệ ». Điều trở ngại, vì hồ sơ nhân quyền u ám,
cũng như Hà Nội là một trong vài chế độ độc tài còn sót lại trên thế giới,
chính giới Hoa Kỳ không chấp nhận việc bán vũ khí cho VN. (Theo lời của một vị
dân biểu tại California, khi mà VN chưa cải thiện về nhân quyền, chưa dân chủ
hóa chế độ, thì các quan hệ với Hoa Kỳ sẽ còn gặp nhiều khó khăn).
Đồng thời lực lượng người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ đến nay cũng đã lớn mạnh, không kém kiều dân Hoa ngày trước. Điều trở ngại, kiều dân Hoa ngày xưa một lòng ủng hộ Đài Loan, thì kiều dân Việt phần lớn chống lại chế độ độc tài toàn trị của Hà Nội. Hầu hết những người Việt này là nạn nhân trực tiếp của chính sách trả thù ác độc cũng như sự cai trị hà khắc của nhà cầm quyền này.
Đồng thời lực lượng người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ đến nay cũng đã lớn mạnh, không kém kiều dân Hoa ngày trước. Điều trở ngại, kiều dân Hoa ngày xưa một lòng ủng hộ Đài Loan, thì kiều dân Việt phần lớn chống lại chế độ độc tài toàn trị của Hà Nội. Hầu hết những người Việt này là nạn nhân trực tiếp của chính sách trả thù ác độc cũng như sự cai trị hà khắc của nhà cầm quyền này.
Về mối bang giao Việt-Mỹ, Hoa
Kỳ vẫn chưa hề xem VN là một nước đáng tin cậy. Tuy vậy, Mỹ vẫn thích thấy một
VN dân chủ, thân thiện quay lưng với TQ hơn là một nước VN độc tài gắn bó với
TQ.
Hành vi của TQ khi đặt dàn
khoan 981 trên thềm lục địa của VN đã khơi dậy lòng yêu nước nơi mọi người
Việt, bất kể quá khứ cũng như lập trường chính trị. Từ điểm tựa này, nếu có một
« chất xúc tác » hữu hiệu (như các học giả thuộc Harvard trong trường
hợp Đài Loan), thì rất có thể lực lượng người Việt tại Hoa Kỳ có thể vận động
hành lang để chính giới nước này thông qua một luật tương tự « Taiwan
Relations Act », theo đó tranh chấp Biển Đông phải được giải quyết bằng (các
phương tiện) hòa bình đồng thời HK bán vũ khí để VN « tự vệ ». Dĩ
nhiên với điều kiện, VN phải nhanh chóng dân chủ hóa chế độ.
Cũng không nên đánh giá
thấp tiềm năng kinh tế của lớp người Việt hải ngoại. Lớp người này gởi về VN
hàng năm trên 10 tỉ đô la. Số tiền này VN có thể mua bất kỳ loại vũ khí tối tân
nào của Hoa Kỳ.
Trên các dữ kiện vừa nói,
đó là một điều thất sách, một tính toán sai về « chiến lược » của
lãnh đạo Bắc Kinh.
Mặt khác, Trung quốc cũng mất đi một
đối tác kinh tế có lợi. Quan hệ hai nước Việt-Trung, cán cân mậu dịch luôn
thiên về phía TQ.
Sai lầm khác, vị trí giàn khoan còn
nằm trong tầm hoạt động của « du kích đại dương ».
Từ « du kích đại dương »,
tức đánh du kích trên biển, có thể áp dụng cho khu vực ở vùng bờ biển nước
Somalie. Khu vực biển này (trong vòng 100km tính từ bờ), cho đến hôm nay, vẫn
còn nằm (trong chừng mực) dưới sự kiểm soát của những nhóm cướp biển trang bị
vũ khí thô sơ như súng phóng lựu B 40 và tiểu liên AK 47 với những chiếc tàu
nhẹ với vận tốc lớn (go fast), có thể lên đến 200km/giờ. Những chiếc tàu thương
mại (tàu dầu, tàu chở hàng hóa, du thuyền...) của các nước khi đi ngang khu vực
này đều đi vòng cách xa bờ biển để tránh bị ăn cướp.
Trình độ kỹ thuật của VN hôm nay có
thể chế tạo hàng loạt loại « khinh tốc đĩnh », những chiếc tàu gọn,
nhẹ... nhưng trang bị vũ khí hùng hậu hơn hải tặc Somalie. Nếu hai bên Việt-Trung
tuyên bố chiến tranh, với chiều dài bờ biển VN, đội ngũ cảm tử quân này sẽ là
những ác mộng cho mọi thuyền bè mang cờ hiệu của TQ.
Tính toán sai lầm khác, hệ quả tiếp
nối khi VN hợp tác với Hoa Kỳ. Hiện nay Hoa Kỳ đang thực thi chiến lược « Tác
chiến trên không và trên biển », được sự cộng tác (từ lâu) của các nước
đồng minh (bao gồm Đài Loan), bao gồm các phương thức « chống tiếp cận,
chống phong tỏa » (A2/AD anti-access, area denial). Mô hình để thực hiện
chiến lược này là « mô hình tiếp cận và Hoạt động chung » (joint
operation access concept - JOAC). Việt Nam là đồng minh lý tưởng, là con cờ
chót, để HK hoàn tất chiến lược này. Tức là, Trung Quốc bị bao vây bởi một hàng
rào (A2/AD anti-access, area denial) hữu hiệu nhất.
Sai lầm khác, là TQ đã hâm nóng lại
vụ tranh chấp quần đảo Hoàng Sa mà nó đã đông lạnh từ bốn thập niên.
Sự hung hăng của TQ tại Biển Đông khiến
quốc tế cảm thấy bị đe dọa. Vấn đề hoàng Sa vốn là tranh chấp song phương, sẽ
phải giải quyết bằng cách thức đa phương. Đây là điều mà TQ muốn tránh.
Tóm lại, quyết định đặt giàn khoan 981
của TQ trên thềm lục địa của VN là một quyết định sai lầm về chiến lược. Trong
nhất thời nó sẽ đẩy lãnh đạo Hà Nội vào thế thụ động. Nhưng áp lực của toàn dân
VN, trong và ngoài nước, cũng như sự quan tâm của quốc tế, nhất là Hoa Kỳ,
khiến cho hành động hung hăng của TQ bị lên án. TQ neo giàn khoan ở đó càng lâu
sẽ càng bất lợi cho TQ. VN sẽ dân chủ hóa chế độ, sẽ mua được vũ khí « sát
thương » của Mỹ để tự vệ, đồng thời sẽ bảo vệ được vùng biển của mình. Vấn
đề hoàng Sa có thể cũng sẽ được giải quyết bằng một tòa án quốc tế, mà khi VN
dân chủ hóa chế độ, thì TQ sẽ không có nhiều phần trăm thắng kiện. TQ không có
lợi gì, trong khi mất một đồng minh ý thức hệ quan trọng, một đối tác kinh tế
mà phía TQ luôn có lợi.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.