Một số học giả VN (Quỹ Nghiên cứu
Biển Đông), do ý muốn hóa giải công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, chủ trương
trong khoản thời gian 1954-1975, hai thực thể chính trị Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
và Việt Nam Cộng Hòa là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Đây là một lập luận rất sai về mặt thực
tế lịch sử, cũng là một lựa chọn hết sức vụng về trên phương diện pháp lý chiến
lược, nó có thể không chỉ làm cho VN mất vĩnh viễn chủ quyền ở quần đảo Hoàng
Sa, mà còn bị đe dọa mất Trường Sa.
Khi nhìn nhận VNDCCH và VNCH là hai « quốc gia »
độc lập có chủ quyền được quốc tế nhìn nhận, thì công cuộc « giải phóng
đất nước » của phía VNDCCH, thể hiện chính thức từ 1959 đến 1975, chỉ là
một nỗ lực sát nhập lãnh thổ của quốc gia VNCH vào quốc gia VNDCCH.
Phía VNDCCH chiến thắng, Quốc gia
VNCH giải thể. Lãnh thổ (và của cải – tích sản và tiêu sản) của « quốc gia »
VNCH được sáp nhập đơn thuần vào VNDCCH. Không hiện hữu việc chuyển giao quyền
lực nhà nước, cũng không hiện hữu việc kế thừa. Quốc gia VN hiện nay (CHXHCNVN)
là quốc gia tiếp nối của quốc gia VNDCCH (vì có chung quốc kỳ, quốc ca, cùng
một đảng lãnh đạo...). Như vậy trên phương diện quốc tế công pháp, VN không thể
chối bỏ những cam kết, những hành vi đã thể hiện trước quốc tế, nhất là đối với
Trung quốc, của VNDCCH trước kia.
Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm
trên tay « quốc gia » VNCH, dưới sự im lặng (đồng tình) của bên thứ
ba là « quốc gia » VNDCCH. Quốc gia CHXHCNVN hôm nay (hoàn toàn xa lạ
với VNCH) không có tư cách nào để kiện TQ về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.
Tức là, vì muốn « hóa giải »
hiệu lực công hàm 1958, các học giả (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) đã đưa VN vào
ngõ cụt về pháp lý.
Sai lầm chiến lược vì giải pháp này
chặt bỏ mọi khả năng lấy lại Hoàng Sa (bằng các phương pháp hòa bình, kể cả
pháp lý) của các thế hệ VN tương lai.
Sai lầm về thực tế lịch sử, vì hai
thực thể chính trị VNDCCH và VNCH không hề là hai « quốc gia ». Hai
thực thể này chưa hề có tư cách pháp nhân « quốc gia », không có bên
nào có ghế đại diện tại Liên Hiệp Quốc. Dân chúng hai miền chưa bao giờ thể
hiện ý muốn ly khai thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Hiến pháp hai
miền đều khẳng định lãnh thổ của nước Việt Nam trải dài từ Nam Quan đến mũi Cà
Mau (hay từ Lạng Sơn đến Cà Mau).
Thực tế lịch sử này, (cũng là một
điều may mắn cho dân tộc Việt Nam), hai miền nam và bắc VN chưa bao giờ là « đối
tượng » của quốc tế công pháp.
Nếu VNDCCH và VNCH là hai quốc gia,
như sự lựa chọn của các học giả VN, các hành vi, các tuyên bố của VNDCCH trước
quốc tế, từ 1954 đến 1975, sẽ là một vấn đề thuộc phạm vi « quốc
tế ». Công hàm 1958 vì vậy trở thành một vấn đề thuộc công pháp quốc tế.
Dĩ nhiên nước VNDCCH sẽ là nước thứ ba, không liên can gì đến việc tranh chấp
HS và TS giữa TQ và nước VNCH.
Hồ sơ pháp lý về Hoàng Sa và Trường
Sa của VN coi như khóa sổ.
Thực tế lịch sử là từ 1954 đến
1975, VNDCCH và VNCH không hề là « quốc gia », theo định nghĩa của
Quốc tế Công pháp.
Hai vùng lãnh thổ Nam và Bắc Việt
Nam đều thuộc vào một quốc gia có tên gọi là Việt Nam, chỉ bị phân chia tạm
thời theo Hiệp định Genève 1954. Điều này được khẳng định qua Hiệp định Paris
năm 1973.
Theo thuật ngữ « quốc tế công
pháp », Việt Nam trong thời kỳ 1954-1975 là một quốc gia bị phân chia.
Có một số trường hợp các quốc gia
bị phân chia, tương tự trường hợp quốc gia Việt Nam, đó là Nam, Bắc Hàn và
Đông, Tây Đức.
Theo định nghĩa, quốc gia bị phân
chia (état divisé) là quốc gia, lúc trước khi bị phân chia đã là một
« quốc gia – Etat », được cộng đồng quốc tế nhìn nhận, và lập trường
chính trị chung của các bên (sau khi bị phân chia) là mong muốn thống nhất lại
đất nước trong tương lai. Đường ranh phân chia chỉ có giá trị tạm thời, không
được nhìn nhận là đường biên giới.
Cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận Việt
Nam là một quốc gia, thành hình từ rất lâu, đã tuyên bố độc lập từ thế kỷ thứ
X. Hiệp định Genève 1954 phân chia VN bằng vĩ tuyến 17 thành hai vùng lãnh thổ.
Đường phân chia này chỉ có giá trị tạm thời (nhằm về tập kết quân sự). Cũng
theo qui định của Hiệp định này, việc thống nhất VN sẽ thể hiện bằng một cuộc
bầu cử, trễ nhất là năm 1956. Việc bầu cử, do nhiều lý do, đã không diễn ra.
Hai miền, từ những năm của thập niên 60, trên thực tế đã hành sử như là « quốc
gia ». Nhưng lập trường chính trị của hai bên vẫn là ý muốn thống nhất lại
đất nước. Cả hai miền đều quyết định không gia nhập Liên hiệp quốc.
Như vậy Việt Nam là một quốc gia bị
phân chia (état divisé – divided country), tương tự trường hợp của Đại Hàn và
Đức, ý muốn của họ là trong tương lai thống nhất lại đất nước.
(Trường hợp Ấn Độ và Pakistan, hoặc
Pakistan và Bangladesh, cũng là các nước bị phân chia nhưng tình trạng pháp lý
của các quốc gia này hoàn toàn khác với Việt Nam. Sau khi được Anh trả độc lập,
đã quyết định phân chia đất nước thành hai vùng lãnh thổ và việc phân chia có
tính cách vĩnh viễn. Hai vùng lãnh thổ trở thành hai quốc gia : Ấn Độ và
Pakistan, với một đường biên giới được xác định và cả hai đều gia nhập vào Liên
Hiệp quốc. Trường hợp Bangladesh ly khai khỏi Pakistan để trở thành một quốc
gia độc lập, được quốc tế nhìn nhận. Các trường hợp phân chia này hoàn toàn
khác với tình trạng của quốc gia Việt Nam.)
Điều cần nói, Hoa Kỳ cũng đã từng
nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia « tạm thời bị phân chia, giống như
trường hợp của Đại Hàn và Đức ». Việc này trình bày trong « Biên bản
ghi nhớ » của bộ Ngoại giao ngày 4-3-1966. Sau đó Hoa Kỳ cũng nhìn nhận và
tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam theo tinh
thần Hiệp định Paris 1973, lập lại nội dung Hiệp định Genève 1954. Tức nhìn
nhận VN là một quốc gia duy nhất.
Điều đáng ghi nhận khác, liên tục
nhiều năm, cho đến năm 1960, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn còn lên tiếng, vào
tháng 7, yêu cầu miền Nam tuân thủ hiệp định Genève, trưng cầu dân ý thống nhất
đất nước.
Tức là các bên (VNDCCH, VNCH, Mỹ và
các nước ký tên cũng như bảo trợ các hiệp ước 1954 và 1973) nhìn nhận Việt Nam
là một quốc gia duy nhất, ý chí của các bên là « thống nhất đất nước ».
Nếu chấp nhận thực tế này, (và chấp
nhận giải pháp pháp lý này), công hàm 1958 chỉ là vấn đề « nội bộ »
của quốc gia chứ không phải thuộc « công pháp quốc tế ».
Vấn đề thuộc « nội bộ quốc gia »
thì sẽ được giải quyết bằng « luật lệ quốc gia ». Nếu thuộc phạm vi « quốc
tế » thì sẽ phải giải quyết bằng « công pháp quốc tế ».
Sự lựa chọn của các học giả VN (Quỹ
Nghiên cứu Biển Đông), và có thể là lập trường của VN hôm nay, như thế là sụp
vào « bẫy » của phía Trung Quốc.
TQ chỉ công nhận thực thể VNDCCH là
đại diện chính thức của quốc gia Việt Nam (và không công nhận VNCH), đồng thời luôn
quan niệm công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là một văn bản giữa « quốc gia
với quốc gia », tức có giá trị quốc tế.
Khi đứng ra cãi « tay đôi »
với TQ về nội dung và hiệu lực công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là sai rồi !
Lý ra phải lập luận, các bên
VNDCCH, VNCH và Mỹ (và các nước ký tên hoặc bảo trợ các hiệp ước 1954 và 1973,
trong đó có Trung Quốc), phải nhìn nhận nội dung các hiệp ước : hai bên
VNDCCH và VNCH là hai thực thể chính trị thuộc về một nước Việt Nam duy nhất.
Chưa bên nào (VNDCCH hay VNCH) được nhìn nhận là « quốc gia », là đại
diện cho Việt Nam tại LHQ. Do đó không bên nào là « đối tượng » của
công pháp quốc tế. Bất kỳ tuyên bố của các bên liên quan đến sự toàn vẹn lãnh
thổ của VN (trên tinh thần các hiệp định 1954 và 1973 mà các bên ký nhận) đều
không có hiệu lực.
Tức là, VNDCCH chỉ là một bên của
quốc gia Việt Nam. Mọi tuyên bố, mọi hành vi liên quan đến vẹn toàn lãnh thổ đất
nước Việt Nam của thực thể này, như công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, đều không
có giá trị.
Nhưng hồ sơ pháp lý của VN đến đây
chỉ mới có « cái nền ». Còn phải xây dựng lên đây nhiều thứ. Điều phải
quyết tâm là phải xây dựng bằng một ý chí xuyên suốt « quyền lợi đất nước
và dân tộc là trên hết », chứ không phải vì quyền lợi đảng phái, vì tiếng
tăm, vì « sổ lương hay sổ hưu »...
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.