Hai bài phỏng vấn TS Trần Công Trục
ở đây
và ở đây,
nội dung ngoài việc đề cập đến một số dữ kiện biên giới, còn có quan điểm riêng
của TS Trục về các lãnh vực khác, liên quan đến lãnh thổ và hải phận của VN với
các nước láng giềng. Theo ý kiến cá nhân của tôi, với tư cách một người thường
xuyên quan tâm đến tình hình của đất nước, có tham khảo khá tường tận các hồ sơ
phân định biên giới giữa hai bên Pháp-Thanh trong thời kỳ 1885-1897, hồ sơ phân
định biên giới Pháp-Thái 1904 và hồ sơ biên giới nội địa Đông Dương (các hồ sơ
gốc) tại Trung tâm Văn khố Hải ngoại (CAOM - Centre des archives d’outre-mer)
tại Aix-en-Provence, Pháp quốc, tôi cho rằng những ý kiến của Trực có cái đúng,
có cái sai, có cái nửa sai nửa đúng. Các ý kiến khác của ông, có điểm tôi chia
sẻ nhưng một số điểm khác tôi không chia sẻ. Bài viết này nhằm trình bày những ý
kiến của tôi về các cái (mà tôi thấy) đúng, sai, vừa đúng vừa sai, hay các ý
kiến mà tôi chia sẻ cũng như không chia sẻ.
1/ Theo tôi, TS Trục đã không sai
khi phê bình về lãnh đạo CSVN đã sử dụng chiêu bài « biên giới, lãnh
thổ » để « chơi nhau », hạ bệ lẫn nhau tranh giành quyền lực. TS
Trục cho rằng :
« có những cá nhân vì tranh
giành lợi ích này lợi ích khác, để hại nhau thì cái nguy hiểm nhất và dễ “hạ”
nhau nhất là sử dụng vấn đề biên giới lãnh thổ, tung tin ông này ông kia nhân
nhượng vô nguyên tắc với TQ, “cắt đất”, “bán đất” cho TQ nhằm tư lợi cho mình ».
Điều này khẳng định giả thuyết đưa
ra từ một bài viết của Nguyễn Chí Trung (thư ký Lê Khả Phiêu) từ đầu thập niên
2000, cho biết quí ông Đổ Mười, Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt đã sử dụng vấn đề
biên giới, lãnh thổ như là vũ khí để hạ bệ ông Phiêu. Tài liệu viết như
sau :
Ngày 3-1 đến 11-1-2001 Đại Hội
đảng toàn quân, cố vấn tấn công đợt 2.
Trong đại hội này LĐ Anh đột ngột buộc LK Phiêu 10 tội:
1.- Bán đất, bán biển cho Trung Quốc.
2.- Lộ bí mật ý đồ chiến lược với Giang Trạch Dân.
Trong đại hội này LĐ Anh đột ngột buộc LK Phiêu 10 tội:
1.- Bán đất, bán biển cho Trung Quốc.
2.- Lộ bí mật ý đồ chiến lược với Giang Trạch Dân.
...
LĐ Anh nêu vụ Phiêu đi thăm TQ
đối thoại với Giang Trạch Dân là phạm tội bán đất , bán biển, là lộ bí mật
chiến lược của đảng, là độc đoán. Đi về không báo cáo với Bộ chính trị, không
cho Nguyễn Mạnh Cầm cùng dự họp là biểu hiện sự thậm thụt sao đó...
Ông Lê Khả Phiêu bị hạ bệ oan ức.
Trong khi những người « bán nước » thực sự là những kẻ đi Thành
Đô « chầu » lãnh đạo TQ đầu thập niên 90, trong đó có cả ông Phạm
Văn Đồng. Chi tiết mật ước ký ở Thành Đô, trao đổi giữa VN và TQ để TQ ưng
thuận việc « bình thường hóa ngoại giao » chưa được công bố, nhưng có
nhiều tiếng đồn cho thấy VN nhượng bộ TQ về vấn đề Biển Đông. Ông Trục thấy vụ
này thế nào ? Người ta đồn vậy là đúng hay sai ?
Mà lãnh đạo CSVN không chỉ dùng
lãnh thổ để « hạ » lẫn nhau nhằm tranh giành quyền lực như ông Trục
đã nói.
Trong quá khứ, nhiều lần họ đã sử
dụng lãnh thổ như là một phương tiện để phục vụ cho mục tiêu bá quyền của nước
lớn, cho cá nhân hoặc cho bè phái ý thức hệ… gây ra ba cuộc chiến tranh vô ích,
làm tổn hại đến quyền lợi của đất nước và dân tộc Việt Nam.
Công
hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Vì nhu cầu cấp bách cần sự trợ giúp vũ khí,
đạn dược của Trung quốc để đánh miền Nam, ông Hồ Chí Minh đã nhìn nhận chủ
quyền của TQ tại HS và TS qua công hàm 1958 do ông Phạm Văn Đồng ký. Hệ quả của
nó, hôm nay VN có thể mất, không chỉ chủ quyền hai quần đảo HS và TS, mà còn
phần lớn khu vực biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của VN.
Về cuộc chiến biên giới Việt-Trung đầu
năm 1979. Theo tài liệu của CIA về vấn đề tranh chấp biên giới do Vũ
Quí Hạo Nhiên tóm lược, ta thấy thực ra phía VN đã « thay đổi nguyên
trạng đường biên giới », lấn 60km² về phía TQ đồng thời làm công sự phòng
thủ, khiến TQ có cớ gây trận chiến biên giới 1979. Tài liệu viết :
Phía Trung Quốc giận dữ vì Hà Nội
đã cả gan thay đổi status quo tại
biên giới, và cho rằng nếu im lặng chấp nhận những thay đổi này thì sẽ trở
thành tưởng thưởng cho Hà Nội và sẽ dẫn đến nhiều vi phạm khác tại biên giới…
Cụ thể, hành động của Hà Nội xây
dựng tuyến phòng thủ (phía Hà Nội tuyên bố là để bảo vệ chống sự xâm nhập của
biên phòng và gián điệp Trung Quốc) làm thay đổi luật chơi của cuộc tranh chấp
chính trị…
Tổng cộng vùng đất Việt Nam
“chiếm đóng” không phải là lớn – khoảng 60 km vuông. Nhưng việc Việt Nam tự cho
là có thể tùy tiện tự nhận bất kỳ
một chút đất nào của Trung Quốc là điều phía Trung Quốc không chấp
nhận được. Và, mặc dù chỉ có khoảng 300 người Trung Quốc bị chết và bị thương,
chính sự thách thức công khai của phía Việt Nam đã khiến bất kỳ một chút tổn thất nào cũng
không chấp nhận được [đối với Trung Quốc]…
Nếu tài liệu này nói đúng, ta có
thể kết luận rằng cuộc chiến biên giới 1979 phía VN có chuẩn bị trước, nếu không
nói VN đã chuẩn bị một « kịch bản » để dụ cho TQ vào tròng. Ta cũng
không quên cùng thời điểm, VN mở đầu cuộc « khủng bố » người Việt gốc
Hoa, ra chính sách tập trung những người này, từ nam ra bắc, tịch thu toàn bộ
gia sản của họ, bắt họ « hồi tịch » (trong đó nhiều người sinh ra và
lớn lên ở VN từ nhiều đời, không biết nói tiếng Hoa), sau đó buộc họ rời khỏi
VN với hai bàn tay trắng. Việc làm này lãnh đạo VN đã phạm tội ác chống nhân
loại, trái với mọi nguyên tắc về các quyền được sống của con người theo qui
định của Hiến chương LHQ.
TQ có đủ lý do chính đáng để can
thiệp : « bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ » và « bảo vệ sinh mạng
và quyền lợi của kiều dân bị đe dọa ». TQ « cho VN một bài
học ».
Câu hỏi đặt ra : Ai chủ trương các
việc đó để TQ có cớ đánh VN ? VN được gì và lãnh đạo VN được gì ?
Qua cuộc chiến, các tỉnh biên giới
miền bắc tan hoang. Phía VN hy sinh có đến 30.000 người. Cộng với cuộc chiến
Campuchia phía nam, VN bị thế giới lên án và cô lập. VN « chảy máu » xém
chết, kinh tế kiệt quệ, gần trở về thời đồ đá cuối thập niên 80. VN lọt hẵn vào
vòng ảnh hưởng của Liên Xô trong lúc nhóm Lê Duẩn nắm hết quyền lãnh đạo.
Cái VN « được » là
« thanh lọc » được các thành phần « chống đối », còn gọi là
« đạo quân thứ 5 ». Nhưng xét lại, thì thấy vơ đũa cả nắm. Hầu hết
thành phần người Hoa ở VN có nguồn gốc ở Quảng Đông, Phúc Kiến, Đài Loan… là
thành phần chống cộng, bỏ xứ từ lâu, thân Quốc Dân đảng. Thành phần này không
thể là « đạo quân thứ 5 » của Bắc Kinh, mà họ là thành tố năng động
của không chỉ kinh tế miền nam, mà còn của cả khu vực, (dĩ nhiên ngoại trừ một
thiểu số nhỏ « Trung Cộng » kiểm soát được). Trục xuất nhóm người này
VN vẫy tay « adieu » với nền kinh tế phồn thịnh. Điều trớ trêu, hiện
nay, ông Trương Tấn Sang vừa ký kết với lãnh đạo Bắc Kinh một loạt hiệp ước mà
tôi gọi là bất bình đẳng, mở cửa biên giới các tỉnh miền bắc, cho phép người
Hoa vào các tỉnh biên giới hợp tác đầu tư. Bất bình đẳng vì việc này chỉ xảy ra
một chiều, chỉ có người hoa vô VN kiểm soát và khuynh đảo kinh tế của VN chứ
người VN không thể vào lục địa để làm các việc tương tự. Ngoài ra còn mở cửa rộng
cho hàng chục « đạo quân thứ 5 », chính thức đến từ Hoa lục, nằm phục
ở VN chờ ngày hữu dụng. Tức là các chính sách về người Hoa mà ông Diệm làm từ
trước (bắt nhập tịch VN, hạn chế các nghề nghiệp…), hay cái « được »
của cuộc chiến 1979, bỗng chốc trở thành zéro.
Về cuộc chiến với nước láng giềng
Campuchia. Đáng lẽ cuộc chiến này cũng không xảy ra nếu lãnh đạo VN không hứa
hẹn về lãnh thổ với Sihanouk cũng như với các lãnh đạo của Khmer đỏ.
Năm 1954 (sau đó nhắc lại ngày
8-6-1967), lãnh đạo CSVN đã tuyên bố « tôn trọng đường biên giới hiện
trạng của Campuchia » với Sihanouk. « Đường biên giới hiện
trạng » này là bộ bản đồ Indochine 1/100.000 trước năm 1958. Đồng thời,
theo một nguồn tin khác, lãnh đạo MTGPMN cũng hứa hẹn trả lại đảo Phú Quốc và
Thổ Chu cho Campuchia để Sihanouk cho phép đặt bản doanh trên đất Miên.
Vấn đề tranh chấp biên giới Việt
Nam – Campuchia là một vấn đề thuộc về lịch sử, bắt đầu từ năm 1949, sau khi quốc
hội Pháp quyết định trả lại Nam kỳ cho VN thay vì cho Cam Bốt, mặc dầu những
vận động hành lang (suýt thành công) của Sihanouk. Việc này khiến Sihanouk hận
người Pháp suốt đời !
Điều nên biết, đường biên giới
Việt-Trung (theo công ước Pháp-Thanh 1887) hay đường biên giới Thái-Miên (1904)
là các đường biên giới « quốc tế », được phân định theo các qui tắc
của công pháp quốc tế, được quốc tế nhìn nhận, trong khi đường biên giới
Việt-Miên không phải là đường biên giới « quốc tế ». Đường biên giới
này chỉ là đường biên giới « nội địa », có giá trị hành chánh do thực
dân Pháp tự động phân định. Trước 1975, VNCH kế thừa lãnh thổ của thực dân Pháp
để lại, áp dụng thực tiễn và tập quán quốc tế, theo nguyên tắc « uti
possidetis » mà quốc tế thừa nhận, khẳng định chủ quyền lãnh thổ của VN và
không nhìn nhận đường biên giới « hiện trạng » của Sihanouk đòi hỏi.
Ý nghĩa nguyên tắc « uti possidetis » là « trước (khi độc lập)
anh làm chủ nó thì bây giờ anh tiếp tục làm chủ nó ». Tức là, sau khi được
trả độc lập, đất nơi nào do VN quản lý thì VN sẽ tiếp tục quản lý (như các đảo
Phú Quốc, Thổ Chu…) cũng như các vùng đất tranh chấp dọc đường biên giới (mà
hiện nay có thể đã trả lại cho Campuchia vì phải tôn trọng « đường biên
giới hiện trạng » mà Sihanouk đòi hỏi).
Vấn đề lãnh thổ, biên giới VN –
Campuchia phức tạp, phải viết thành sách mới đầy đủ. Đại khái, lập trường của
VNCH về lãnh thổ và hải phận đối với các nước láng giềng xem ra
« mạnh » hơn lập trường của VN hiện nay. Không phải
« mạnh » về sức vóc mà mạnh về tư thế pháp lý. VNCH không bị ràng
buộc ở bất kỳ điều gì. Trong khi VN hiện nay phải tôn trọng những gì mình đã
tuyên bố. Cam kết 1954 (hiệp định Genève), sau đó khẳng định lại năm 1967, là
những tuyên bố công khai, (tương tự công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng), nhìn nhận
đường biên giới hiện trạng của Campuchia, có hiệu lực rằng buộc pháp lý.
VN không thủ tín, chiến tranh vì
vậy xảy ra.
Cuộc chiến này, cùng với cuộc chiến
biên giới phía bắc, không biết bao nhiêu xương máu thanh niên Việt Nam đã đổ
xuống. Đất nước VN kiệt quệ, đến 3 thập niên sau chưa gượng lại được. Các cuộc
chiến này đáng lẽ đã không xảy ra.
Lãnh đạo VN đã hứa hẹn những điều
không thể thực hiện được. Mà cuộc chiến 1978 với Campuchia vẫn chưa giải quyết
được tất cả các vấn đề. Hiện nay lãnh tụ đảng phái chính trị Campuchia, được TQ
ủng hộ, lên tiếng đòi lại đất đai, hô hào dân chúng bài Việt, đòi đuổi những
người Việt đang sinh sống bên Miên về nước. Các việc đe dọa sự yên ổn của các
kiều dân Việt sống hợp pháp ở Campuchia là hành động kỳ thị chủng tộc, có
khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay VN vẫn
chưa gởi công hàm phản đối.
Về vấn đề biên giới, nếu các lãnh
đạo chính trị Campuchia dựa lên các lời hứa của lãnh đạo VN hay các tuyên bố
chính thức của VN để đòi lại lãnh thổ đất đai, đòi hỏi này sẽ là chính đáng,
nếu một đường biên giới được quốc tế nhìn nhận giữa hai bên vẫn chưa được thực
hiện.
Như thế, ngoài việc sử dụng lãnh
thổ, đất đai để hạ bệ nhau, tranh giành quyền lực, thì việc lãnh đạo VN hứa hẹn
lãnh thổ cho TQ (tại HS và TS) hay với Campuchia, cho thấy sẽ còn đem lại cho
VN trong tương lai nhiều phiền phức. Chiến tranh có thể xảy ra nếu VN không giữ
lời hứa. Mà nếu giữ lời hứa thì thiệt hại cho đất nước không biết bao nhiêu mà
kể.
Nhân dịp TS Trục nói ra, tôi đề cập
lại các vấn đề này để mọi người cùng suy gẫm : Làm thế nào để hóa giải các
hứa hẹn, các tuyên bố có giá trị ràng buộc của lãnh đạo VN trước quốc tế ?
Khi mà các hứa hẹn, các tuyên bố này chưa hóa giải hiệu lực, VN không nhiều hy
vọng giữ được toàn vẹn lãnh thổ (kể cả khi phải nhờ đến chiến tranh).
2/ Về ý kiến sử dụng các tài liệu
lịch sử như là một bằng chứng có giá trị pháp lý, tôi hoàn toàn chia sẻ với TS
Trục.
Nhắc lại để nhớ, khoảng năm 2001
thì phải, tin tức trong nước dồn dập tung ra nào là VN mất ải Nam quan, mất
thác Bản Giốc... làm báo chí xôn xao. Học giả các nơi lục sử liệu viết bài biên
khảo về Ải Nam Quan, về thác Bản Giốc... Cá nhân tôi cũng bị cuốn vào cơn lũ
thông tin này. Dĩ nhiên, cũng như bao người VN khác, vấn đề đất đai lãnh thổ là
điều thiêng liêng, không ai có thể tự tiện cắt nhượng cho ngoại bang. Để đi tìm
sự thật, có lẽ tôi là người đầu tiên đã vào văn khố Pháp lục lọi hồ sơ cũ, tìm
hồ sơ phân định biên giới 1885-1897 giữa Pháp và nhà Thanh, sau đó công bố
những tài liệu liên quan đến các vùng đất tranh chấp. Tuy nhiên, đôi khi sự
thật pháp lý cũng phải nhường chỗ cho tình cảm yêu nước dạt dào. Tôi có bằng
chứng chỉ ra rằng ải Nam Quan thuộc về đất Tàu, đường biên giới cách đó 100m,
nhưng điều này ít ai tin. Đến nay nhiều người vẫn tưởng rằng Nam Quan thuộc VN,
vì sách vở lịch sử VN viết như thế. Có thể sau này mọi việc sẽ đâu vào đấy, tình
cảm mà, không thể trách cứ ai được.
Những năm tháng gần đây, lại dấy
lên phong trào truy tầm bản đồ cổ và thư tịch cổ, chứng minh rằng HS và TS
không thuộc TQ. Nhưng các việc đó sẽ không nói lên được điều gì, nếu ta chịu
khó đọc các tài liệu pháp lý, các bản án mẫu của Tòa quốc tế phân xử các tranh
chấp về biên giới giữa các nước. Thực ra, bản bồ tự nó không hề có giá trị như
một « bằng chứng ». Nhiều lần tôi đã cảnh báo việc này (ở đây
và ở đây).
Tuy nhiên, trong bài phỏng
vấn TS Trục nói :
Tôi đã đọc kỹ bài viết này của ông
Mai Thái Lĩnh. Đây là một trường hợp điển hình về việc nhầm lẫn giữa chủ quyền
lịch sử, bằng chứng lịch sử, quan điểm lịch sử với các chứng lý lịch sử có giá
trị pháp lý trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo luật pháp
quốc tế.
Gần đây những vấn đề về quan điểm về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử đã trở thành vấn đề nếu như chúng ta không nhìn nhận một cách khách quan, thực tế, cầu thị, có căn cứ sẽ dẫn đến tình trạng hết sức phức tạp, không chỉ những vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên đất liền mà cả đối với các hải đảo và các vùng biển.
Gần đây những vấn đề về quan điểm về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử đã trở thành vấn đề nếu như chúng ta không nhìn nhận một cách khách quan, thực tế, cầu thị, có căn cứ sẽ dẫn đến tình trạng hết sức phức tạp, không chỉ những vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên đất liền mà cả đối với các hải đảo và các vùng biển.
Tôi cho rằng TS Trục chỉ muốn mượn
bài viết của tác giả Mai Thái Lĩnh nhằm gởi gấm đến một số « học
giả » trong nước, đến những tờ báo trong và ngoài nước đã đăng những bài
viết sử dụng những tài liệu lịch sử để khẳng định chủ quyền của VN tại HS và TS
hay tại biên giới Việt-Miên.
Ý kiến của TS Trục chung quanh vấn
đề « chủ quyền lịch sử », qua tấm bản đồ chữ U của TQ, hay việc các
nhà chính trị Campuchia sử dụng lá bài biên giới lãnh thổ, khơi động tinh thần
kỳ thị chủng tộc với Việt Nam để kiếm phiếu. Điều tiếc là không thấy TS Trục
phản biện « quyền lịch sử » của TQ như thế nào ? Cũng không thấy
phản biện lại các lý lẽ của Sam Rainsy ra sao ? Tôi cho rằng sẽ hết sức
gượng ép khi so sánh ý nghĩa « chủ quyền lịch sử » và giá trị của các
dữ kiện lịch sử với nội dung bài viết của tác giả Mai Thái Lĩnh. Theo tôi,
không có điểm nào trong bài viết của MTL mà TS Trục có thể dựa vào đó để dàn
trải ý kiến của mình. Tôi thì có bài viết ngắn ở đây
về « chủ quyền lịch sử của TQ ở biển Đông ».
Nhận định của TS Trục về bài viết
của MTL :
Trong tài liệu này,
ông Mai Thái Lĩnh căn cứ vào sách giáo khoa, vào lịch sử, văn chương, bưu ảnh,
bản đồ cho đến cả ghi chép cá nhân của một người trong đoàn đàm phán Pháp -
Thanh. Tất cả các tài liệu này, như đã phân tích ở trên rõ ràng nó nằm ngoài
phạm vi nguyên tắc pháp lý mà 2 bên Việt Nam và TQ có thể thống nhất và đã
thống nhất với nhau làCông ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và các văn kiện bản
đồ phân giới cắm mốc đi kèm, do đó những tài liệu ông Lĩnh đưa ra chỉ
có tính chất tham khảo và không thể dùng làm chứng cứ để khẳng định chủ quyền
của anh hay của tôi. Phía TQ cũng có các tài liệu tương tự như vậy, và ta không
chấp nhận.
Có thể TS Trục đọc không kỹ bài của
ông MTL. Bài viết này có lấy một số tài liệu của tôi (có cái thì dẫn nguồn, có
cái thì không), cũng như một số tài liệu lịch sử trong nước, đồng thời dựa lên
một tấm bản đồ (do Hoa Kỳ sản xuất). Dĩ nhiên tấm bản đồ này cũng như các tài
liệu lịch sử khác có một giá trị nhứt định về « thông tin », hữu ích
cho việc soi sáng một vấn đề từ nhiều phía. Còn các tài liệu trích dẫn của tôi
là các tài liệu phân định biên giới (chụp hình từ tài liệu gốc). Đó là hình
chụp biên bản phân giới, hai bản chữ Pháp và chữ
Hán, mô tả vị trí mốc 53, cùng đính kèm bản đồ của Sở
địa dư Đông dương ấn hành. Các tài liệu này thuộc bộ phận của công ước
Pháp-Thanh 1887 mà TS Trục đã nhắc nó như là mẫu mực để phân định lại biên
giới.
TS Trục không thể phủ nhận các tài
liệu này khi chưa đưa ra được các tài liệu « có giá trị pháp lý » cao
hơn để phản biện. (Sẽ nói cụ thể hơn các chi tiết liên quan đến thác Bản Giốc ở
phần dưới.)
Hay là TS Trục muốn qua bài viết
của ông MT Lĩnh để đáp trả bài trả lời phỏng
vấn trên BBC vừa qua của một học giả VN ? Nếu vậy thì tôi hoàn toàn
chia sẻ, nếu nói thẳng như Tây « con chó là con chó, con mèo là con
mèo ». Thật vậy, ta không thể tranh biện về chủ quyền, lãnh thổ với nước
ngoài mà chỉ đưa ra các « bản đồ », các « bằng chứng » lịch
sử hết sức chung chung như vậy. Vấn đề tranh chấp giữa VN và TQ, hay Việt-Miên,
không chỉ liên quan lãnh vực lịch sử, mà còn liên quan đến các lãnh vực pháp lý,
về địa lý – kinh tế - chính trị - chiến lược. Các học giả VN hình như chỉ muốn
dùng lịch sử để giải quyết cho tất cả.
TS Trục đặt vấn đề hôm nay là kịp
lúc, nhưng nội dung trình bày qua hai bài phỏng vấn, có lẽ không mấy ai nắm
được điều muốn gởi gấm.
Tôi cũng nghĩ TS Trục muốn dựa vào
bài viết của MTL để « tính toán sổ sách » với những người đã từng « chửi
ông đã bán đất cha ông cho Trung Quốc ».
Theo tôi, TS Trần Công Trục, cũng
như TS Nguyễn Hồng Thao, những người từng lãnh trách nhiệm « trưởng ban
biên giới », là những người đáng được mọi người trân trọng. Tranh
luận là một chuyện, nhưng quan hệ giữa « con người », tôi nghĩ mọi
người nên dành cho nhị vị này một cách đối xử xứng đáng. Quí vị này nhận lãnh
một chức vụ cực kỳ khó khăn, đòi hỏi kiến thức cao về lịch sử và pháp lý, nhưng
không được phần thưởng tương xứng. Đây là một phần vụ, có thể là duy nhất,
người lãnh đạo có thể cấp bậc ngang hàng thứ trưởng, như trong thực tế không
« chấm mút » được cái gì, trong khi những thẩm định sai lầm, nếu có,
có thể bị tai tiếng, thậm chí bị trừng phạt nặng nề. Tôi cho rằng quí vị là
những người có công với đất nước, qua các đóng góp trong công trình phân giới
cắm mốc, cũng như những đóng góp quan trọng về văn hóa. Không ai có thẩm quyền
phê phán quí vị « bán nước » cả. Thực ra, ở các địa điểm tranh chấp,
các quyết định tối hậu đều do lãnh đạo cấp cao. Khu vực Bản giốc và bãi Tục
Lãm, quí vị trình bày các chứng cớ lịch sử và pháp lý, còn quyết định là do TT
Nguyễn Tấn Dũng.
3/ Vấn đề « lưỡi gỗ ».
TS Trục nói :
Nhóm thứ 2 thì chúng ta đều biết,
có những đối tượng, thế lực muốn lật đổ, bôi nhọ chính thể này. Hiện nay ngoài
những vấn đề về kinh tế, tôn giáo, xã hội thì câu chuyện về chủ quyền lãnh thổ
chính là “mảnh đất màu mỡ” để các đối tượng này có thể lợi dụng.
Tôi hết sức thất vọng khi TS Trục
sử dụng « lưỡi gỗ » để phê bình những người bất đồng chính kiến. TS
Trục đã không đưa ra được bằng chứng nào cho thấy không bị mất đất, lại còn phê
bình những người nói đến việc này là « bôi nhọ » VN. Nào thấy TS Trục
đưa ra các bản đồ vùng Nam Quan, Bản Giốc, Tục Lãm của công ước Pháp Thanh 1887
để so sánh với bản đồ theo tinh thần hiệp ước vừa ký ?
Theo tôi, mọi mặt về kinh tế, tôn
giáo, xã hội... bộ mặt VN đã đen tối đến mức có người muốn « bôi
nhọ » thêm cũng không còn chỗ để bôi.
Xã hội VN là một xã hội theo khuôn
khổ XHCN. Nhưng có còn cái gì là XHCN ? Nhà thương, trường học phải trả phí.
An sinh xã hội là con số zéro. Trong khi xã hội VN lại mang những khuyết tật
chỉ có ở các nước tư bản man rợ nhứt. Không cần báo chí nước ngoài, TS Trục hãy
đọc các báo trong nước, của công an để biết về tình hình xã hội, hay các trang
báo đặc biệt về kinh tế để biết tình trạng bi đát của VN hôm nay.
Về tôn giáo, chính những báo cáo
của các tổ chức ONG (ở các vùng Tây bắc, Tây nguyên, đồng bằng sông Cửu
Long...) cho thấy vấn đề tín ngưỡng ở VN bị đàn áp nặng nề. Các vấn đề
khác về nhân quyền, báo cáo đã nhiều đến mức không còn nơi để chứa đựng.
TS Trục có lẽ phải biết, toàn vùng
Tây bắc (nơi có huyện Mường Nhé, thuộc Phong Thổ...), toàn vùng hữu ngạn sông
Hồng, đáng lẽ thuộc về TQ theo công ước 1887. Công ước 1895 kịp thời lấy lại
các vùng đất này, do sự thần phục của các tù trưởng dân tộc ở đây với chính
quyền Pháp. Lớp người dân tộc này bị đàn áp, bị bạc đãi, bị hất hủi bên lề xã
hội VN. Đối với họ, tổ quốc Việt Nam sao tàn ác và xa lạ. Họ sẵn sàng từ bỏ tổ
quốc này để nhận lấy một tổ quốc khác bao dung và ân cần với họ hơn.
TS Trục có lẽ cũng không quên rằng
vùng cao nguyên Darlac chỉ mới sát nhập vào VN thôi, qua các quyết định của nhà
cầm quyền Pháp (dưới danh nghĩa trao đổi vùng Trấn Ninh về Lào). Những người
dân tộc ở đây cũng lần hồi trở thành người lạ, bị xua đuổi ngay trên chính mảnh
đất của mình. Họ đứng bên lề mọi thành quả phát triển quốc gia, họ sống trên
đất của tổ tiên họ mà như đang sống tầm gởi ở một chốn nào. Những người dân tộc
này cũng không thể yêu mến tổ quốc VN, một tổ quốc đã cướp đi những gì quí báu
nhứt của cuộc đời : đất đai. Họ không có gì quyến luyến với tổ quốc này và
sẵn sàng chối bỏ nó.
TS Trục cũng không thể không biết Nam
kỳ chỉ được quốc hội Pháp trả cho VN năm 1949, trong khi khuynh hướng trả cho
Cam Bốt (do nhóm Gaston Defferre cầm đầu) cũng gây áp lực đáng kể. Còn vương
quốc Chăm thì cũng mới bị diệt vài thế kỷ nay. Một điều cần nhớ rằng những
người Miên người sinh sống ở miền Nam hay người Chàm ở miền Trung, họ không
phải là dân « thiểu số » mà họ là dân « bản địa ». Họ có
các quyền « lịch sử » của họ.
Nói như thế để biết cái « mong
manh » của đất nước VN. Nó có thể tan vỡ bất cứ lúc nào.
Vấn đề biên giới lãnh thổ không
phải là mảnh đất « màu mỡ » để bọn « phản động hải ngoại »
sử dụng chống phá nhà nước như TS Trục nói đâu ! Người yêu nước nào lại
không quan tâm đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ ? Đâu phải chỉ có những người
theo cộng sản mới là yêu nước ? Đâu phải người nào lên tiếng về lãnh thổ,
chủ quyền biển đảo là chống nhà nước ? Chính thái độ vô trách nhiệm của lãnh
đạo CSVN, hay những tuyên bố bừa bãi, lưỡi gỗ của các viên chức nhà nước (như
thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn mới đây)... mới là nguy cơ tiềm ẩn làm
cho chất keo đoàn kết tan rã.
Nhiều người tiên đoán rằng tương
lai TQ sẽ tan vỡ ra thành nhiều mảnh, thành nhiều quốc gia độc lập khác nhau.
Giả thuyết này có thể đúng, và nó cũng sẽ đúng hơn cho VN nếu chính sách hòa
giải quốc gia vẫn chưa áp dụng để giải tỏa mọi mâu thuẫn về dân tộc, về tôn
giáo, về hệ quả của các phong trào NVGP, XLCD, CCRD… trong quá khứ.
4/ Về các bãi bồi ở cửa sông Bắc
Luân và đường biên giới ở Nam quan.
Tôi hoàn toàn đồng ý với TS Trục ở
việc này :
Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895
là cơ sở pháp lý rõ ràng nhất, hiện đại nhất từ trước đến nay, có thể dùng làm
cơ sở để tiếp tục đàm phán, tiến tới hoạch định, đàm phán và xác lập đường biên
giới chính thức, cụ thể, chính xác theo tiêu chuẩn quốc tế.
Các khu vực bãi bồi ở cửa sông Bắc
Luân, khu vực Nam Quan, Thác Bản Giốc, TS Trục cho rằng :
các khu vực được xếp loại C là
những vùng tranh chấp pháp lý, về mặt thực tế quản lý có tất cả 164 khu vực
loại C với tổng diện tích hơn 200 km vuông.
... các khu vực loại C thì là khu vực tranh chấp, quan điểm và cơ sở pháp lý khác nhau. 2 bên ngồi lại và đem tất cả tài liệu căn cứ pháp lý ra chứng minh, thu hẹp dần dần những vùng tranh chấp, còn lại những vùng mấu chốt nhất 2 bên không thuyết phục được nhau thì lúc bấy giờ phải tính đến những nguyên tắc để giải quyết tiếp. Điển hình của các khu vực C chính là Hữu Nghị Quan (tức Ải Nam Quan), Thác Bản Giốc và bãi Tục Lãm.
... các khu vực loại C thì là khu vực tranh chấp, quan điểm và cơ sở pháp lý khác nhau. 2 bên ngồi lại và đem tất cả tài liệu căn cứ pháp lý ra chứng minh, thu hẹp dần dần những vùng tranh chấp, còn lại những vùng mấu chốt nhất 2 bên không thuyết phục được nhau thì lúc bấy giờ phải tính đến những nguyên tắc để giải quyết tiếp. Điển hình của các khu vực C chính là Hữu Nghị Quan (tức Ải Nam Quan), Thác Bản Giốc và bãi Tục Lãm.
Tôi không cho rằng đường biên giới
khu vực Nam Quan, thác Bản Giốc và các bãi bồi ở cửa sông Bắc Luân lại có những
khác biệt quan điểm pháp lý giữa đôi bên.
Khu vực Nam quan, hồ sơ phân định
biên giới 1887 đề cập tới lui nhiều lần.
Biên bản phân giới của Công ước Pháp-Thanh
xác định đường biên giới khu vực Nam Quan bằng cột mốc số 18. Cột mốc này cách
cổng Nam Quan 100m về phía nam.
Biên bản không thể viết cụ thể hơn.
Đường biên giới được nhà nước phân
định lại không đi qua cột mốc 18 mà đi qua cột cây số zéro (của quốc lộ), mang
số 1116. (« Bị vong lục » của VN viết rằng cột mốc 18 bị TQ ủi
nát từ năm 1955). Trong khi cột mốc 19, theo công ước Pháp-Thanh, lẽ ra phải
cắm trên đỉnh núi lại cắm dưới chân núi, mang số 1118.
Xem hình vị trí các mốc mới ở đây. Hình của
báo chí trong nước.
Bản đồ khu vực Nam Quan do Sở Địa
dư Đông dương in, ở đây. Bản đồ
khu vực Nam Quan năm 1892 ở đây. Nguồn
CAOM.
Tôi không ra thực địa, không biết
cột km Zéro cách cổng Nam Quan là bao nhiêu mét ? Nhiều người đi tham khảo
về nói rằng ít ra cổng Nam Quan cách cột cây số zéro ít ra là 300 mét. Nếu vậy
thì VN bị thiệt 200m. Đó là chưa nói ở cột mốc 19 (cắm trên núi nay dời xuống
cắm dưới chân núi, mà không biết núi này có phải là ngọn núi ngày xưa hay không ?).
Về các bãi bồi ở cửa sông Bắc Luân.
Đây là các bãi mới bồi, thành hình sau khi công ước 1887 được ký kết. Liên quan
đến việc phân chia các bãi bồi, chiếu theo các công ước Pháp Thanh 1887 và 1895,
có hai phương cách để phân chia : bãi bồi trên sông hay bãi bồi trên biển
(đảo, cù lao).
Nếu các bãi bồi thuộc sông, việc
xác định chủ quyền các bãi bồi, lý ra chỉ cần xác định đường biên giới trên
sông là đủ.
Theo tinh thần các công ước Pháp
Thanh 1887, đường biên giới trong trường hợp này là dòng chảy chính, hay là
dòng chảy sâu nhất. Cù lao ở gần bờ nào thì thuộc chủ quyền của nước đó.
Tôi không ra thực địa, nhưng nếu xem
trên Google Earth thì thấy được dòng chảy chính, cũng là đường sâu nhứt (có màu
xanh đậm hơn các nơi khác), tức là đường biên giới, đường này ở phía bắc các
bãi mới bồi. Tức các bãi này phải thuộc VN mới đúng.
Giả sử rằng các bãi bồi này được
tính theo cù lao trên biển, thì chúng cũng thuộc chủ quyền của VN. Công ước
Pháp-Thanh 1887 qui định đường biên giới vùng này là đường kinh tuyến đi qua
điểm cực đông của đảo Trà Cổ. Xem trên Google Earth thì rõ ràng các cù lao này
ở về phía tây của đương kinh tuyến, tức chúng phải thuộc VN.
Xem thêm bài viết chi tiết ở đây.
Như thế, cũng không có vấn đề về pháp lý ở khu vực này.
Vậy mà TS Trục nói :
Những người vẫn còn đang theo
đuổi “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” để chỉ trích
Việt Nam bán đất cho TQ ở thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan hay sông Bắc Luân, thử
hỏi họ có thể chấp nhận được quan điểm vô lý của một số người Campuchia như Sam
Rainsy khi đòi “chủ quyền” đối với đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu, thậm chí là cả
Nam Bộ của Việt Nam hay không? Tôi tin là hoàn toàn không.
TS Trục không đưa ra được bất kỳ
bằng chứng nào để chứng minh rằng VN không bị thiệt hại ở các vùng Nam Quan hay
bãi Tục Lãm (và thác Bản Giốc nói bên dưới). TS Trục đã sai ít nhất ở 3 điểm :
Một, TS Trục không thể so sánh biên
giới Việt-Trung, một đường biên giới quốc tế (theo công ước 1887) với biên giới
Việt-Miên, chỉ là đường biên giới nội địa Đông Dương, không có giá trị quốc tế.
Hai, việc đòi hỏi đất đai của Sam
Rainsy sẽ không vô lý nếu nó đặt căn bản từ những tuyên bố của CSVN (1954 và
1967) và hứa hẹn của lãnh đạo CSVN.
Ba, việc phân định lại vùng cửa
sông Bắc Luân, vùng Nam quan và thác Bản Giốc là không công bằng. Việc
phân định này phía VN đều thiệt hại.
Có đến 164 địa điểm tranh chấp, TS
Trục nói ra 3 điểm. Điều đáng buồn là cả ba điểm VN đều thiệt hai cả ba. Tôi
nghĩ rằng, TS Trục thay vì dùng « lưỡi gỗ » chỉ trích bọn « phản
động », bênh vực cái chế độ mà người dân đã chán ngán đến tận cổ, nên dành
thời giờ của mình nghiên cứu làm thế nào hủy bỏ hiệu lực các tuyên bố, các hứa
hẹn của các lãnh đạo VN trong quá khứ về vấn đề lãnh thổ với các nước láng giềng.
5/ Về thác Bản Giốc.
Sự thật cần được thiết lập lại ở
thác Bản Giốc.
Theo tài liệu
phân định biên giới, biên bản phân giới ký tại Long Châu ngày 19 tháng 6
năm 1894 giữa Ðại Tá Galliéni và Commandant Famin, đại diện chính phủ Pháp và ông Thái Hy Bân, Tri Phủ Long Châu, đại diện nhà Thanh,
cột mốc 53, bản tiếng Pháp tên Pan-Ngo, cắm tại « bên lề một con
đường ở phía tây-tam và trên phần nối dài của
một khu rừng nhỏ », « au bord du chemin et au SO et sur le
prolongement d’un petit bois ». Bản tiếng Hoa ghi tên Bách Nga khẩu, mô tả cột mốc cắm dưới chân
núi.
Ta thấy nội dung
hai bản văn không « ăn khớp » với nhau.
Theo các tài
liệu của Pháp Bulletin du service Géologique de l’Indochine, Volume XI,
Fascicule I, Etudes Géologiques sur
le Nord-Est Du Tonkin, (Feuilles de Bảo-Lạc, Cao-Bằng, Hà-Lang,
Bắc-Kạn, Thất-Khê và Long-Châu), Réné Bourrret; Ha-Noi - Hải-Phòng Imprimerie
d’Extrême d’Orient – 1922. (trang 32-33-34), thác Bản Giốc thuộc VN. Khuyến cáo
của các nhân viên sở địa chất Đông dương là nên khai thác kinh tế ngọn thác này
vì cái đẹp của cảnh trí thiên nhiên của khu vực.
Trong khi tài
liệu của Cd Famin, cuốn Au Tonkin et
sur la frontière du Kwang-si, thì có lúc ghi nhận thác Bản Giốc cách biên giới
2 km (trang 12),
có lúc thì ghi thác Bản Giốc ở trên đường biên giới (trang 143).
Với những dữ liệu không rõ ràng và mâu thuẩn
như vậy, thời gian tôi mất cho việc xác định vị trí và chủ quyền thác Bản Giốc mất
gần một năm, đọc và tham khảo không biết bao nhiêu là tài liệu.
Lại còn nghe trả
lời phỏng vấn của ông Lê Công Phụng, ông này lại cho rằng cột 53 được cắm trên
một cái cồn nhỏ ở giữa suối.
Sau đó lại nhận được tài liệu « Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ
năm 1954 đến nay. » của VN. Hầu như tất cả những người VN đều bị thuyết phục nội
dung của « Bị vong lục », viết ra để tố cáo TQ lấn đất. Theo
đó thác Bản Giốc thuộc về VN :
Tại khu vực cột mốc 53 (xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh,
tỉnh Cao Bằng) trên sông Qui Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và
chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976,
phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành
hàng rào bố phòng dày dặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ
Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt
ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam
trên cồn Pò-Thoong và ngang nhiên nhận cồn nầy là của Trung Quốc.
Trong khi từ đầu
tôi đã tham khảo và chụp hình được bản đồ SGI vùng thác Bản Giốc, nhưng lại
tưởng rằng cái chấm ghi « Ban Giot » trên bản đồ là thác Bản Giốc
(và ở đây),
trong khi đó là đồn Bản Giốc. Vì thế, những bài viết hay bài phỏng vấn, tôi tổng
hợp tài liệu để cho rằng thác Bản Giốc cách biên giới 2km.
Sau này, khi xem
xét lại các tài liệu, mới thấy rằng thác Bản Giốc nằm trên đường biên giới,
đúng như vẽ trên các bản đồ hay bản Nhật ký của Trung Úy Détrie về đoạn biên giới từ Lũng Ban đến Ðèo Lương (28 tháng 6
năm 1894) : thác Bản Giốc ở hạ lưu cột mốc 53.
La frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du village de
Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du blockhaus chinois de
Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan
(53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de
la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra
être l’objet d’une surveillance constante.
…
A partir de la belle cascade de 50m qui se trouve
un peu en aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân coule resserré entre des
mamelons élevés ».
Sự thật về thác Bản Giốc là như vậy. Vấn đề là,
chủ quyền cồn Pò Thoong thì thuộc nước nào ?
Xét tất cả các bản đồ SGI, ta thấy cồn
Pò Thoong đã hiện hữu trước khi phân định biên giới. Theo qui tắc phân định
biên giới, văn bản có giá trị cao hơn bản đồ. Nếu văn bản không mô tả cồn Pò
Thoong thuộc nước nào, thì bản đồ phân định sẽ xác định chủ quyền. (Trường hợp
nếu bản đồ không xác định, thì phải truy lục hồ sơ lúc bàn thảo).
Trong trường hợp này, văn bản có
hiệu lực thứ tự 1, bản đồ hiệu lực 2, nhật ký của Trung Úy Détrie, là người cắm
mốc trong khu vực, có giá trị thứ tự 3.
Ta thấy đường biên giới trên các
bản đồ luôn đi về phía bắc cồn Pò Thoong, chứ không đi ngang qua cồn. Nhứt là
bản đồ ở đây.
Như vậy, theo tinh thần các bản đồ, cồn này thuộc chủ quyền của VN.
Tóm lại, về thác Bản Giốc, TS Trục
nói có phần đúng, có phần sai. Theo tôi, việc phải phân chia cồn Pò Thoong cho
TQ là điều không hợp lý.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.