Lập trường của Việt Nam về chủ
quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được trình bày rõ
rệt qua bài viết “Vietnams
Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys : Its Maritime
Claims » của TS Nguyễn Hồng Thao (TS. NHT). Không biết đây có thực sự
là quan điểm chính thức của VN, như tựa đề muốn nói, hay chỉ là ý kiến riêng
của tác giả. Điều quan tâm là một số lập luận được sử dụng trong bài có thể
không thuyết phục.
1/ Thử xét lập luận : « Người ta không thể từ bỏ về cái mà người
ta không có chủ quyền ».
Lập luận này thường được dẫn đi dẫn
lại ở các bài viết của các học giả VN[i]. Ý
kiến này nguyên của học giả Monique Chemillier-Gendreau, trong tập tài liệu
« La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys ». Nguyên
văn lẽ ra phải viết đầy đủ như sau :
« Dans ce
contexte, les déclarations ou pris de position éventuelles des autorités du
Nord-Vietnam sont sans conséquences sur le titre de souveraineté. Il ne s’agit
pas du gouvernement territorialement compétent à l’égard des archipels. On ne
peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas d’autorité[ii] ».
Tạm dịch : trong bối cảnh đó, những tuyên bố hay lập
trường nào đó của nhà cầm quyền miền Bắc thì không ảnh hưởng lên danh nghĩa chủ
quyền. Nhà nước này không phải là nhà nước có thẩm quyền về lãnh thổ đối với
các quần đảo. Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có thẩm quyền.
Các học giả VN « vắn
tắt » bớt, do việc người sau trích dẫn người trước, không kiểm chứng lại
nguồn. TS. NHT viết :
« It had no right to give up the territory that it did not have[iii]”
- « Người ta không thể từ bỏ lãnh thổ mà người ta không có thẩm
quyền »
Người đầu tiên sử dụng lý lẽ này có lẽ là ông Từ Đặng Minh Thu, qua bài
viết ở đây. Tác giả này dịch đoạn văn trên như sau :
“Trong những điều kiện này, những
lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có
hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên
quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm
soát được…”
Tác giả dịch « Dans ce contexte – bối cảnh này » thành ra
« trong những điều kiện này », theo tôi là không phù hợp. Vấn đề cần
tìm hiểu: bối cảnh đó là bối cảnh nào ?
Trang 122, tác giả Monique Chemillier-Gendreau nhắc đến ông L. Thomas
Bradford, trong « The Spratly Island Imbroglio : a tangled web of
conflict”; Ông này cho rằng, qua công hàm Phạm Văn Đồng, “Vietnam réaffirmé sa
reconnaissance de la prétention chinois sur les archipels » - « Việc
Nam tái xác nhận sự công nhận của họ về chủ quyền của Trung Quốc ở các quần
đảo ».
Một số lập luận của bà Monique Chemillier-Gendreau nhằm mục đính phủ
nhận ý kiến của Thomas Bradford (cho rằng VN bị Estoppel). Không thể diễn
giải Công hàm 1958 như là « tái xác nhận việc công nhận chủ quyền của TQ
tại HS và TS ».
Đó là “bối cảnh” của câu văn.
Các học giả VN, chỉ dựa vào câu « Người ta không thể từ bỏ lãnh thổ
mà người ta không có thẩm quyền », từ đó kết luận công hàm PVD là không có
giá trị ràng buộc. Điều này hiển nhiên thiếu thận trọng. Bởi vì, nó có thể đúng
trong bối cảnh này (estoppel) nhưng chưa chắc đúng trong các bối cảnh khác (thí
dụ: acquiescement).
Có hai điều cần xem xét:
1/ Vào thời điểm 1958, VNDCCH có là một “quốc gia” như các học giả VN đã
nói hay không? Nếu có, quốc gia này có “thẩm quyền quốc gia - compétence étatique” ở
HS và TS hay không ?.
2/ Sau 1976, VN thống nhất đất nước, dĩ nhiên nhà nước CSVN có thẩm
quyền trên toàn lãnh thổ đất nước. Câu hỏi đặt ra: VN có bị ràng buộc bởi công
hàm 1958 hay không ?
Điều thứ nhất sẽ khảo sát ở dưới. Điều thứ hai, cũng là sự lo
ngại của bà Monique Chemillier-Gendreau. Ý kiến của bà học giả không chỉ vỏn
vẹn trong câu văn dẫn trên. Vài dòng trước đó bà viết :
« Néanmoins, son silence devant
l’affirmation de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme
un acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration
relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan.[iv] »
Tạm dịch : « dầu vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước
sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một
sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng
chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân. »
Phải hiểu thể nào về « acquiescement
– sự đồng thuận » theo luật Quốc tế ? Điều này cũng sẽ nói sau đây.
2/ Về ý nghĩa pháp lý « acquiescement – sự
đồng thuận » của các « tuyên bố đơn phương ».
Điều cần nói rõ, Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc về lãnh hải quốc gia, là Tuyên bố
đơn phương có hình thức « décision[v] - quyết định » (hơn là hình thức « notification[vi] »).
Theo tập quán quốc tế hiện nay,
khi quốc gia ra tuyên bố về bề rộng lãnh hải của nước mình, thường thông báo
đến các quốc gia khác « lập trường » của nước mình qua hình thức
« notification - thông báo ». Các nước khác, nếu công nhận lập trường
này, sẽ gởi công hàm trả lời mang hình thức « reconnaissance[vii] – công nhận ». Trường hợp không đồng ý thì gởi công hàm
« phản đối – protestation[viii] ».
Bất kể tuyên bố về lãnh thổ và
hải phận của TQ mang hình thức « Désision – quyết định » (mang tính
ép buộc cho phía nhận quyết định) hay « Notification – thông báo »,
công hàm của ông Phạm Văn Đồng là một Tuyên bố đơn phương, công khai, mang hình
thức « công nhận » tuyên bố của TQ. (Ở đây là công nhận tuyên bố chủ
quyền lãnh thổ cũng như việc mở rộng lãnh hải 12 hải lý của TQ).
Vấn đề là, VN hôm nay có thể nói
ngược lại, là chỉ công nhận lãnh hải 12 hải lý của TQ ở mọi vùng lãnh thổ của
TQ, mà không tôn trọng ở HS và TS, với lý do HS và TS thuộc VN hay
không ?.
Như bà Monique
Chemillier-Gendreau có ghi nhận, VNDCCH đã tôn trọng quyết định của TQ qua
nhiều hình thức khác nhau, trong một thời gian dài, trong đó có việc nhìn
nhận vùng biển và vùng trời của TQ tại HS, qua bài báo trên nhật báo Nhân Dân.
Mặt khác, nhà cầm quyền miền Bắc cũng nhiều lần cho in
bản đồ trong đó ghi chú Nam Sa và Tây Sa thuộc TQ (chứ không phải HS và TS
thuộc VN).
Các động thái trên là hình thức
« comportement actif[ix] -
thái độ chủ động », dấu hiệu của « acquiescement ».
Ngoài ra, nhà cầm quyền miền Bắc
đã giữ thái độ im lặng khi TQ xâm lăng HS của VN năm 1974. Đây là
hình thức « comportement passif – thái độ thụ động », một dấu hiệu
khác của « acquiescement ».
Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn
về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia được
Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ[x] thông qua có nội dung :
Des déclarations formulées
publiquement et manifestant la volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de
créer des obligations juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit
ainsi sont réunies, le caractère obligatoire de telles déclarations repose sur
la bonne foi; les États intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur
elles; ils sont fondés à exiger que de telles obligations soient respectées.
Tạm
dịch : « Những tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ý muốn
tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp
lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng buộc của các tuyên bố này
được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên bố
này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng ».
Công hàm 1958 hội đủ hai yếu tố
« công khai » và « ý chí tôn trọng ». Vì vậy nó có thể tạo
ra một nghĩa vụ pháp lý.
Nhà nước CHXHCNVN hiện nay - nhà
nước kế thừa VNDCCH - khó có thể cho
rằng « công hàm 1958 công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc ở mọi
nơi, ngoại trừ HS và TS ».
Sai lầm là vì, năm 1958, thay vì
đưa ra tuyên bố « phản đối – protestation », theo đúng như thủ tục
của luật quốc tế, nhằm bảo lưu chủ quyền của VN tại HS và TS, VNDCCH lại viết
công hàm « công nhận – reconnaissance » nội dung tuyên bố của TQ.
Theo tập quán quốc tế, các quan
Tòa thường rất thận trọng khi kết án một quốc gia trên nguyên tắc « acquiescement », nếu chỉ đơn thuần dựa trên một vài « dấu
hiệu » nào đó. Trường hợp VN, nếu so sánh với các bản án mẫu, với thái
thái độ thụ động của CSVN trước việc xâm lăng của TQ ở HS năm 1974, cách hành
sử của nhà nước CSVN qua việc nhìn nhận và tôn trọng vùng biển, vùng trời của
TQ tại HS và TS, các việc in ấn các bản đồ, cùng với các các tuyên bố của các
viên chức nhà nước… tất cả tạo nên thành tố « acquiescement – nhìn
nhận » chủ quyền của TQ tại HS và TS.
TS Nguyễn Hồng Thao dẫn vụ án xử
Tân Tây Lan và Úc cùng kiện Pháp năm 1974 lên CIJ về việc Pháp « Thử bom
nguyên tử trong khí quyển » :
“If States make statements by which
their freedom of action is to be limited, a restrictive interpretation is
called for”.
Tạm dịch : Nếu một quốc gia có tuyên
bố mà (nội dung của tuyên bố) có thể hạn chế hành động của quốc gia này trong
tương lai, việc giải thích cần hạn chế.
Hàm ý cho rằng việc diễn giải công hàm 1958 cũng cần sự hạn chế.
Trường hợp vụ án, các viên chức có thẩm quyền của Pháp đã ra các tuyên
bố, theo đó nước Pháp sẽ không thử bom nguyên tử trong khí quyển nữa. Tân Tây
Lan và Úc vịn vào các tuyên bố này kiện lên CIJ, yêu cầu Pháp không được thử (khi
thấy Pháp lăm le muốn thử nữa).
Ta thấy rõ ràng tuyên bố của các viên chức Pháp có hệ quả hạn chế tự do
của nước Pháp trong tương lai. Nhưng kết quả phân xử cho thấy, phía Tân Tây Lan
và Úc thắng kiện. Pháp không được quyền thử bom nguyên tử trong bầu khí quyển
(nhưng sau đó thì thử dưới lòng đất!).
Tuyên bố của ông Đồng hạn chế hành động nào của VN trong tương lai ?
Không có điều nào cả !
Vấn đề tranh chấp chủ quyền HS giữa VN và TQ bắt đầu từ năm 1909. Còn
tranh chấp TS thì sau Thế chiến II. Nhà cầm quyền VNDCCH không thể vịn lý do
“không biết” để mà tuyên bố “công nhận” đòi hỏi của TQ.
TS NHT ghi lại nội dung
của điều 7[xi] của
bản Nguyên
tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ. Người viết đã từng tham khảo và tạm dịch (từ
tiếng Pháp) như sau:
Một tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng ràng
buộc quốc gia (đã phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên bố) có một mục đích rõ
ràng và cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ cam kết của tuyên bố,
thì văn bản phải được giải thích một cách hạn chế.
Trở lại vụ án “Thử bom nguyên tử” 1974 giữa Tân Tây Lan và Pháp trước
CIJ, Tòa cũng nhấn mạnh :
Một tuyên bố đơn phương chỉ có thể tạo nghĩa vụ pháp lý đối với quốc gia
tuyên bố khi mà nó có mục tiêu rõ rệt và cụ thể[xii].
Các tuyên bố của các lãnh đạo Pháp đã có mục tiêu rõ rệt và cụ thể. Vì
vậy nó tạo nghĩa vụ pháp lý, buộc nước Pháp phải giữ lời.
Tương tự, tuyên bố của Phạm Văn Đồng cũng rất rõ rệt và cụ thể: nhìn
nhận và tán thành tuyên bố về lãnh thổ cũng như việc mở rộng 12 hải lý lãnh hải
của TQ. Vì vậy nó sẽ tạo nghĩa vụ pháp lý, buộc VN phải giữ lời. Có nghĩa là VN
phải tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của TQ ở mọi nơi có liệt kê trong bản tuyên
bố của TQ. Tức kể cả ở HS và TS.
TS NHT cũng dẫn vụ án giữa Mã Lai và Singapour về chủ quyền các đảo Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South
Ledge, CIJ[xiii],
ngày 23-5-2008 nhằm biện
hộ cho công hàm 1958 :
The declaration by PM Pham Van Dong did not have a constitutive
character for giving up territory. In the case concerning sovereignty over
Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks, and South Ledge
(Malaysia/Singapore) regarding the Singapore argument that the Johor Authority
recognized Singapore sovereignty over those islands, the Court took a
position not to consider the Johor reply as having a constitutive character in
the sense that it had a conclusive legal effect on Johor. The text of PM Pham
Van Dong does not have any constitutive character regarding South Vietnamese
territory. Consequently, it had no conclusive legal effect on the fate of the
Paracels and Spratlys.
Tạm dịch: Tuyên bố của Phạm Văn Đồng
không có giá trị thiết định cho việc từ bỏ lãnh thổ. Trong vấn đề tranh chấp
chủ quyền tại các đảo Pedra Branca /
Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South Ledge (Malaisie / Singapour), liên quan
đến lý lẽ của phía Singapour, (nước này) cho rằng lãnh đạo của Johor đã nhìn
nhận chủ quyền của Singapour tại các đảo. Lập trường của Tòa thì không xem lá
thư của Johor có giá trị thiết định trong chiều hướng (lá thư này) có hiệu quả
pháp lý đối với Johor. Văn thư của ông Đồng không có giá trị thiết định đối với
những vấn đề lãnh thổ của miền Nam. Do đó, không có một hiệu quả pháp lý nào
trên vấn đề HS và TS.
TS NHT, cũng như nhóm Quĩ
Nghiên cứu biển Đông, dẫn thí dụ về quan điểm của Tòa đối với lá thư của Bộ
trưởng Ngoại giao Johor trong vụ án dẫn trên nhưng việc trích dẫn này không phù
hợp, nếu không nói là thiếu thành thật.
Trong
vụ án CIJ xử vụ tranh chấp giữa Mã Lai và Singapour về chủ quyền các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge, việc
giải thích hiệu lực công hàm 1953 của Johor chiếm một thời lượng lớn, từ đoạn 192
đến đoạn 230 trong biên bản ghi chép phiên xử.
Đoạn
trích dẫn của TS NHT về hiệu quả lá thư của Johor là đoạn 227, nguyên văn như
sau:
227.
Pour ce qui est du premier argument, la Cour ne considère pas la réponse du
Johor comme revêtant un caractère constitutif au sens où elle aurait eu pour
celui-ci un effet juridique décisif. Il s’agit plutôt d’une réponse à une
demande de renseignements. Ainsi qu’il
apparaîtra plus loin, cet argument est, compte tenu des circonstances,
étroitement lié au troisième.
Tạm
dịch : về lý lẽ thứ nhất, Tòa không cho rằng lá thư trả lời của Johor bao
gồm một giá trị thiết định trong chiều hướng nó đem lại cho lý lẽ này một hiệu
quả pháp lý quyết định. Đúng ra đây là câu trả lời cho một câu hỏi tham khảo. Cũng
như nó sẽ trở lại ở phần sau, lý lẽ này, với hoàn cảnh như vậy, có liên hệ chặt
chẽ với (lý lẽ) thứ ba.
TS NHT đã trích dẫn không
đầy đủ, sau đó diễn giải ý nghĩa xa rời bối cảnh.
Ở đây Tòa không hề cho
rằng lá thư của nhà nước Johor không có hiệu lực pháp lý, mà chỉ cho rằng nó
không có một hiệu quả pháp lý quyết định cho lý lẽ thứ nhất. Vấn đề là lý lẽ
thứ nhất đó là gì ?
Tòa cũng cho rằng lý lẽ
này quan hệ chặt chẽ với (cái) thứ ba. (Cái) thứ ba đó là cái gì ?
Muốn biết lý lẽ thứ nhất
và « cái » thứ ba là gì, ta phải xem đoạn 226 :
226. Pour conclure son examen de la
correspondance de 1953, la Cour relèvera trois aspects connexes de
l’argumentation développée par les conseils de Singapour à partir de celle-ci.
Premièrement, Singapour a présenté la réponse du Johor comme une «déclaration
de non-revendication expresse» ou «officielle» du titre sur Pedra Branca/Pulau
Batu Puteh; deuxièmement, elle a invoqué la notion d’estoppel ; troisièmement, elle a fait valoir que la réponse du
Johor équivalait à un engagement unilatéral obligatoire.
Tạm
dịch : Để kết luận việc khảo sát của Tòa về lá thư 1953, Tòa đưa ra ba
phương diện liên hệ đến lý lẽ được khai triển bởi các Ủy viên Singapour ở lá
thư này. Thứ nhất, Singapour đã trình bày thư trả lời của Johor như là một
« tuyên bố minh thị từ bỏ chủ quyền », hay « chính thức »,
về danh nghĩa ở đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh ;
thứ hai, viện dẫn khái niệm Estoppel ; thứ ba, lập luận rằng thư trả lời
của Johor tương đương với một cam kết đơn phương bắt buộc.
Như vậy, đoạn trích dẫn
của TS NHT chỉ liên quan đến khía cạnh thứ nhất : Singapour đã trình bày
thư trả lời của Johor như là một « tuyên bố minh thị từ bỏ chủ
quyền », hay « chính thức », về danh nghĩa ở đảo Pedra
Branca/Pulau Batu Puteh. Tức là, theo Tòa, lá thư không có giá trị thiết định
để việc « tuyên bố minh thị từ bỏ chủ quyền » có hiệu
quả pháp lý quyết định.
Điều này không có nghĩa,
lá thư không có giá trị pháp lý nào khác. Tòa còn có ý kiến riêng của tòa, có
điều các học giả VN « quên » không nhắc mà thôi.
Tòa cho rằng lá thư này là
một câu trả lời của Johor cho câu hỏi của Singapour. Câu hỏi của Singapour đại
khái là : Đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh có thuộc chủ quyền
của Johor không ?
Bộ trưởng Ngoại giao lâm
thời Johor trả lời : Đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh
không thuộc sở hữu của Johor.
Đoạn 275, ý kiến của Tòa
về lá thư :
« Il s’agit de la
déclaration, faite dans des termes clairs en 1953 par le secrétaire d’Etat par
intérim de l’Etat du Johor, selon laquelle le Johor ne revendiquait pas la
propriété de Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. Cette déclaration revêt une
importance capitale ».
Tạm
dịch : Về tuyên bố 1953 của Ngoại trưởng lâm thời Johor, thể hiện bằng
những lời lẽ cụ thể, theo đó Johor không tranh dành chủ quyền đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. Tuyên bố
này mang một tầm quan trọng quyết định.
Cuối cùng Tòa phán đảo Pedra
Branca/Pulau Batu thuộc về Singapour, mặc dầu hồ sơ phía Mã Lai đã lập rất công
phu, bao gồm nhiều văn kiện lịch sử quan trọng, chứng minh được rằng Mã Lai có
chủ quyền lịch sử tại đảo tranh chấp.
Mã Lai bị mất chủ quyền lịch sử ở
đảo này vì nhiều lý do, ngoài lý do « effectivité », Singapour đã hành
sử các quyền chủ quyền một cách hòa bình và liên tục tại đảo này, còn có lá thư
của Johor là một yếu tố quyết định « importance capitale ».
Trở lại tuyên bố 1958 của ông Đồng,
thật vậy, nội dung lá thư không hề nói đến chủ quyền HS và TS. Nhưng lá thư này
có thể diễn giải tương tự như trường hợp lá thư của Johor, đó là « ý
kiến » của VNDCCH về một quyết định của TQ.
Ngoài ra Công hàm 1958 có tính cách
pháp lý ràng buộc của một tuyên bố « công nhận[xiv] »,
trong khi lá thư Johor chỉ là một « câu trả lời cho một câu hỏi tham khảo
- une réponse à une demande de renseignements. »
3/ Vấn đề « thẩm quyền lãnh thổ » :
Trở lại câu : « Người ta
không thể từ bỏ lãnh thổ mà người ta không có thẩm quyền » mà các học giả
VN dẫn tới dẫn lui trong các bài viết. Như đã viết ở trên, điều cần phải làm
cho minh bạch là vào thời điểm 1958, VNDCCH có là một “quốc gia” như các học
giả VN đã nói hay không? Nếu có, quốc gia này có “thẩm quyền quốc gia - compétence étatique” ở
HS và TS hay không ?.
Câu trả lời là vào khoảng 1958,
VNDCCH không hề là một « quốc gia », theo định nghĩa của Quốc tế Công
pháp, đơn giản vì VNDCCH không phải là « đối tượng » của Quốc tế Công
pháp.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, VNDCCH và
VNCH chỉ là « quốc gia từng phần – Etat partiel » trong một
« quốc gia tổng thể - Etat global[xv] ».
Trong thời kỳ 1954-1975, Việt Nam
là một đất nước bị phân chia (état divisé – divided state). Trường hợp Ấn Độ
và Pakistan, hoặc Pakistan và Bangladesh, cũng là các nước bị phân chia nhưng
tình trạng pháp lý của các quốc gia[xvi] này
hoàn toàn khác với Việt Nam.
Theo định nghĩa[xvii],
quốc gia bị phân chia (état divisé) là quốc gia, lúc trước khi bị phân chia đã là
một « quốc gia – Etat », được cộng đồng quốc tế nhìn nhận, và lập
trường chính trị chung của các bên (sau khi bị phân chia) là mong muốn thống
nhất lại đất nước trong tương lai. Đường ranh phân chia chỉ có giá trị tạm
thời, không được nhìn nhận là đường biên giới.
Cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận Việt
Nam là một quốc gia, thành hình từ rất lâu, đã tuyên bố độc lập từ thế kỷ thứ
X. Sau hiệp định Genève 1954, VN bị phân chia bằng vĩ tuyến 17 thành hai vùng
lãnh thổ. Đường phân chia này chỉ có giá trị tạm thời (nhằm về tập kết quân sự).
Cũng theo qui định của Hiệp định này, việc thống nhất VN sẽ thể hiện bằng một
cuộc bầu cử, trễ nhất là năm 1956. Việc bầu cử, do nhiều lý do, đã không diễn
ra. Hai miền, từ những năm của thập niên 60, trên thực tế đã hành sử như là « quốc
gia ». Nhưng lập trường chính trị của hai bên vẫn là ý muốn thống nhất lại
đất nước. Cả hai miền đều quyết định không gia nhập Liên hiệp quốc[xviii].
Như vậy Việt Nam là một quốc gia bị
phân chia (état divisé – divided state), tương tự trường hợp của Đại Hàn và
Đức, ý muốn của họ là trong tương lai thống nhất lại đất nước[xix].
Trường hợp Ấn Độ và Pakistan, sau
khi được Anh trả độc lập, đã quyết định phân chia đất nước thành hai vùng lãnh
thổ và việc phân chia có tính cách vĩnh viễn. Hai vùng lãnh thổ trở thành hai
quốc gia : Ấn Độ và Pakistan, với một đường biên giới được xác định và cả
hai đều gia nhập vào Liên Hiệp quốc. Trường hợp Bangladesh ly khai khỏi
Pakistan để trở thành một quốc gia độc lập, được quốc tế nhìn nhận. Các trường
hợp phân chia này hoàn toàn khác với tình trạng của quốc gia Việt Nam.
Về thái độ của các nước trên thế
giới, có thể phân chia thành 2 nhóm khác nhau, có quan niệm đối chọi nhau về tư
cách pháp nhân của « quốc gia Việt Nam » trong giai đoạn 1954-1975.
Nhóm 1 : công nhận nhà nước VNCH
là chính thống, đại diện cho quốc gia Việt Nam (từ Nam Quan đến Cà Mau). Các
nước tiêu biểu của nhóm này bao gồm các nước tư bản, thuộc khối tự do như Mỹ,
Pháp, Anh… khoảng 56 quốc gia. Nhà nước VNCH cũng được nhìn nhận là đại diện
chính thức của Quốc gia VN tại các định chế quốc tế thuộc LHQ.
Nhóm 2 : công nhận nhà nước
VNDCCH là chính thống, đại diện cho Quốc gia VN (từ Lạng Sơn đến Cà Mau). Các
nước tiêu biểu của nhóm này bao gồm các nước thuộc khối cộng sản, như Liên Xô,
Trung Quốc…
Ngoại lệ Ấn Độ, không công nhận bên
nào là đại diện chính thống của quốc gia Việt Nam[xx].
Như thế, lập trường áp đảo là chỉ
có 1 quốc gia VN, hoặc do nhà nước VNDCCH đại diện, hoặc do VNCH đại diện.
Điều cần nói, Hoa Kỳ cũng đã từng
nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia « tạm thời bị phân chia, giống như
trường hợp của Đại Hàn và Đức ». Việc này trình bày trong « Biên bản
ghi nhớ » của bộ Ngoại giao ngày 4-3-1966[xxi].
Hoa Kỳ cũng nhìn nhận và tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nước Việt Nam theo tinh thần Hiệp định Paris 1973. Tức nhìn nhận VN là một quốc
gia duy nhứt.
Điều đáng ghi nhận khác, liên tục
nhiều năm, cho đến năm 1960, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn còn lên tiếng, vào
tháng 7, yêu cầu miền Nam tuân thủ hiệp định Genève, trưng cầu dân ý thống nhất
đất nước.
Như thế thì lý lẽ nào để cho rằng,
vào thời điểm 1958, VNDCCH và VNCH là hai quốc gia ?
VNCH và VNDCCH là hai nhà nước thù
nghịch nhau vì lý do ý thức hệ (tương tự Đại Hàn và Đức) nhưng cùng thuộc về
một nước VN duy nhất. Vif cùng chủ trương một nước VN duy nhất, hai nhà nước,
chính thống hay không chính thống, đều có tư cách và trách nhiệm như nhau về
các vấn đề chủ quyền lãnh thổ.
Nhóm Quĩ Nghiên cứu Biển Đông, qua
bài viết ở đây,
có dẫn tên một số học giả như James Crawford, Robert Jennings, Nguyễn Quốc
Định, Jules Basdevant, Paul Reuter, Louis Henkin, Grigory Tunkin, cho rằng VNCH
và VNDCCH là « hai quốc gia » riêng biệt. Điều đáng tiếc là không
thấy nhóm nghiên cứu này nói rõ hơn là các học giả đó viết trong sách nào ?
trang mấy ? Riêng tác giả James Crawford, thì trong cuốn The Creation the
States in International Law mà tôi có tham khảo, từ trang 472 đến trang 477 cho
rằng Việt Nam là một quốc gia bị phân chia.
Nhưng cũng đặt thử giả thuyết, năm
1958 VNDCCH và VNCH là hai « quốc gia », cho đẹp lòng các học giả VN.
Hệ quả sẽ ra sao về các vấn đề lịch sử và pháp lý ?
Khi đã là « Quốc gia »,
VNDCCH sẽ phải là đối tượng của Quốc tế Công pháp. Các hành vi, các tuyên bố
của VNDCCH trước quốc tế, từ 1954 đến 1975, sẽ là một vấn đề thuộc phạm vi
« quốc tế ». Công hàm 1958 vì vậy trở thành một vấn đề thuộc công
pháp quốc tế. Dĩ nhiên nước VNDCCH sẽ là nước thứ ba, không liên can gì đến việc
tranh chấp HS và TS giữa TQ và nước VNCH.
Còn chiến tranh VN, tức cuộc nội chiến
nồi da xáo thịt, tên « xung kích XHCN » sừng sỏ đánh tên đại diện
« tiền đồn thế giới tự do » VNCH, qua sự ủy nhiệm của các « quan
thầy quốc tế ». Là hai quốc gia, quan điểm của miền Bắc, cuộc chiến tranh
« Giải phóng, Thống nhất đất nước », sẽ phải đổi lại là chiến tranh
« chinh phục, mở rộng bờ cõi ». Quan điểm của VNCH, chiến tranh chống
kẻ xâm lăng, dân tộc « Nam kỳ » « mất nước », bị dân tộc
Bắc Kỳ đô hộ. Quan điểm quốc tế, cuộc chiến tranh này vi phạm các nguyên tắc
của Hiến chương LHQ, các nước có bổn phận can thiệp để bảo vệ VNCH (như trường
hợp Koweit bị Irak xâm lăng qua cuộc chiến Vùng Vịnh lần 1). Lúc đó sự can
thiệp (nếu có) của Hoa Kỳ sẽ chính đáng, (chứ không bị thế giới lên án như
chiến tranh VN).
Đặt giả thuyết này để thấy rằng
quan điểm hai nhà nước VNDCCH và VNCH là hai « quốc gia » là một điều
rất sai, sai lầm về mặt lịch sử và tai hại về mặt pháp lý.
Vì vậy, cố gắng biện luận rằng
VNDCCH và VNCH là hai quốc gia (với những bằng chứng ngụy tạo), sau đó dẫn lời
(một cách không đầy đủ) của bà Monique
Chemillier-Gendreau : “người ta không thể cho cái mà người ta không có
thẩm quyền”… đều chỉ là ngụy biện. Các học giả này không ai chứng minh rằng
VHDCCH và VNCH là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền, lãnh thổ được phân định,
theo như tiêu chuẩn của Quốc tế công pháp. (Và đây là điều thật may mắn cho
tiền đồ của dân tộc VN !)
Thái độ ngụy biện, hay việc thiếu
thành thật trong việc trích dẫn, không hề giúp VN giành lại HS và TS, mà ngược
lại, nó chỉ cho người ta thấy sự yếu kém của học giả VN và càng củng cố thêm
cho lý lẽ của phía TQ.
4/ Vấn đề kế thừa :
TS Nguyễn Hồng Thao, cũng như nhiều
học giả VN, khi trích dẫn câu « người ta không thể từ bỏ cái mà người ta
không có chủ quyền », mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo HS và TS không
thuộc chủ quyền của « quốc gia » VNDCCH.
Như vậy, sau 1976, từ bao giờ HS và
TS của « quốc gia » VNCH trở lại thuộc chủ quyền của CHXHCNVH ? Trở
lại bằng cách nào ? Kế thừa từ Cộng hòa Miền nam VN hay kế thừa
VNCH ? Kế thừa ở đây là kế thừa « Quốc gia – Etat » (vì đã nhìn
nhận VNDCCH và VNCH là hai quốc gia) chứ không phải kế thừa chính quyền
(Gouvernement). Thủ tục kế thừa đã thể hiện ra sao ?
Không thấy ai đưa ra lời giải thích
rành mạch.
Nhóm Quĩ nghiên cứu Biển Đông, trong
bài viết ở đây,
đề nghị nhà nước CSVN hôm nay « nhìn nhận » VNCH « từng là một quốc
gia » (sic !).
Vấn đề « nhìn nhận » một
vùng lãnh thổ có phải là một quốc gia hay không là tùy thuộc theo nhiều tiêu
chuẩn pháp lý do LHQ đặt ra, chứ không tùy thuộc vào sự việc được sự nhìn nhận
của nước khác. Mặt khác, người ta không thể « nhìn nhận » tư cách
pháp nhân cho một thực thể nào đó đã không còn hiện hữu.
Vấn đề là làm thế nào « kế
thừa » VNCH chứ không phải « nhìn nhận » VNCH đã từng như là một
quốc gia !
Như thế lập luận « có hai quốc
gia VN trong khoảng 1956-1975 » là điều nguy hiểm cho VN tương lai. Nó
không hề hóa giải được hệ quả công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng mà nó chỉ có khả
năng xóa bỏ mọi chứng cớ pháp lý quan hệ giữa VN hôm nay (CHXHCNVN) và các đảo
HS và TS.
Cũng nói về lý lẽ của phía TQ, trả
lời khi VN đòi đưa HS vào bàn thuơng thuyết : khi nào VN chứng minh được miền
Nam (tức VNCH) không thuộc nước Việt Nam thì họ sẽ ngồi xuống đàm phán với VN
về quần đảo HS.
Phía VN « ngọng » !
Vì danh không chánh thì ngôn không thuận !
Đối với TS, quan niệm của TQ,
VNDCCH đã chiếm trái phép các đảo TS của TQ.
Các học giả VN, người đi sau « copy »
người đi trước, không ai thấy có nhu cầu xem xét lại, rập khuôn vào cùng một
lập luận, cùng mắc phải một sai lầm, « đóng đinh » VN cứng đơ trên
cây « thánh giá », bất khả tranh biện với TQ.
Vấn đề « kế thừa » và
« liên tục » quốc gia của VN đã được nhiều tác giả đề cập, cụ thể qua
tập « State Succession and Membership in International Organisations –
Legal Theories versus Political Pragmatism »[xxii] của
tác giả Conrad G. Buhler (trang 69-113) hoặc Luận án của bà Mme Joële Nguyên
Duy-Tân, tóm lược qua bài « La représentation du VietNam dans les
institutions spécialisées »[xxiii].
Các tập tài liệu này đã đưa ra
những tài liệu pháp lý, cho thấy CHXHCNVN là một quốc gia mới. Nhà nước
CHXHCNVN là nhà nước tiếp nối của VNDCCH[xxiv].
Nhà nước này từ chối kế thừa bất kỳ danh nghĩa nào thuộc về VNCH.
Những nhà lãnh đạo CSVN làm như thế
là đúng với cái « logic » của họ.
Bà Joële Nguyên Duy-Tân có đặt vấn
đề :
« La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement l'existence d'un
Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N. peut-elle succéder à
une entité inexistante pour elle?
Tạm dịch :
VNDCCH luôn cương quyết phủ nhận sự hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức
VNCH. CHXHCNVN có thể kế thừa một thực thể mà họ đã quan niệm là không hiện
hữu ?
Tài liệu thuộc Bộ Ngoại giao Pháp,
ngày 9-9-1978, cho thấy CHXHCNVN từ chối kế thừa di sản của thực dân Pháp
(chuyển sang VNCH) :
A la suite de la disparition de la
République du Sud VN, le nouveau gouvernement de VN n’a pas fait la déclaration
indiquant qu’il entendait succéder aux traités des 16 Septembre 1954 et 16 Aout
1955, conclus entre la République française et l’ancien gouvernement Sud
Vietnam. Il en résulte, conformément au principes du droit international actuel
en matière de question du succestion d’Etat, que ces traités n’engagent plus le
gouvernement actuel de VN et qu’il sont devenus caduc.[xxv]
Tạm dịch :
Tiếp theo sự biến mất của Cộng hòa miền Nam, chính phủ VN mới đã không ra tuyên
bố cho biết họ kế thừa các hiệp ước 16-9-1954 và 16-8-1955, ký kết giữa Cộng
hòa Pháp và chính phủ miền Nam VN cũ. Vì vậy, chiếu theo các nguyên tắc của
luật quốc tế hiện thời về vấn đề kế thừa quốc gia, các hiệp ước này không còn
ràng buộc chính phủ VN hiện thời và chúng trở thành vô giá trị.
Một loạt các hành động khác, như
CHXHCNVN ký kết vào hiệp ước « Không phổ biến vũ khí nguyên tử » với
tư cách một quốc gia mới, từ chối kế thừa VNCH[xxvi].
Hoa Kỳ cũng xác nhận VNCH là một
quốc gia bị gián đoạn[xxvii] :
The Republic of Viet Nam, both of a state and government, had ceased to
exist in law or fact and the United States had not recognized any government as
the sovereigh authority in the territory formerly known as South Viet nam
Tạm dịch: Việt Nam cộng hòa, quốc
gia và chính quyền, đã ngừng hiện hữu trên phương diện pháp lý và thực tế. Hoa
Kỳ không công nhận bất kỳ nhà nước nào trên vùng lãnh thổ trước kia mang tên
Nam Việt Nam.
TS NHT lập luận CHXHCNVN kế thừa HS và TS từ CHMNVH. Vậy thì nhà
nước CHMNVN đã thụ đắc danh nghĩa chủ quyền tại HS và TS khi nào ? Từ nhà
Nguyễn, chính quyền thực dân Pháp hay VNCH ?
Tuyên bố của bộ Ngoại giao Pháp 9-9-1978
dẫn trên cho thấy lập luận của TS NHT về kế thừa HS và TS là không có cơ sở.
Như vậy, lập luận VNDCCH và VNCH là
« hai quốc gia » đã đưa VN vào bế tắc.
Trong khi lập luận « hiệp định
Genève 1954 phân chia VN thành hai quốc gia » nguyên thủy là lập trường
của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là một « tác
nhân » trong cuộc chiến VN. Vì lo ngại xảy ra một « chiến tranh Cao
Ly thứ 2 » với Trung Cộng, đồng thời bảo đảm việc can thiệp vào VN phải
phù hợp với các nguyên tắc về chiến tranh theo qui định của quốc tế « jus
ad bellum » và « jus in bello »[xxviii],
HK muốn biến miền Nam thành một « tiền đồn chống cộng » vững chắc. Do
đó nước này có ý muốn thành lập ở miền Nam một « quốc gia » đúng
nghĩa.
Nội dung bức thư[xxix]
của Eisenhower gởi
ông Diệm này 1-10-1954 : chúng tôi sẽ giúp cho VNCH xây dựng thành một
« quốc gia » phú cường, có khả
năng chống lại mọi loạn lạc bên trong cũng như những gây hấn bên ngoài.
Tháng 12 năm 1961, trả lời thư ông Diệm, TT
Kennedy hứa hẹn[xxx] : « Chúng tôi
sẵn sàng giúp chính quyền VNCH để bảo vệ người dân trong nước, để giữ vững nền
độc lập của đất nước ».
Hoa Kỳ muốn xây dựng miền Nam VNCH trở
thành một « quốc gia » hùng mạnh, có tính chính thống, duy nhất đại
diện quốc gia VN. Cuộc chiến VN sẽ cuộc chiến « xâm lược », vì miền
Bắc vi phạm hiệp định Genève, xâm lược miền Nam. Từ đó Hoa Kỳ mới có lý do vịn
vào để đổ quân vào VN, tương tự như chiến tranh Cao Ly. Nhưng VNCH không trở
thành một quốc gia « chính thống » và « hùng mạnh », vì
song song đó, các nước XHCN cũng giúp VNDCCH trở thành một quốc gia « chính
thống » và « hùng mạnh » khác. Cuộc chiến mà Hoa Kỳ lo ngại
(trường hợp Bắc Hàn xua quân đánh Nam Hàn) đã không xảy ra, vì lãnh đạo CSVN đã
áp dụng phương sách của Mao Trạch Đông, dùng « du kích chiến », nuôi
dưỡng con bài MTGPMN đồng thời mở mặt trận chính trị tuyên truyền, bôi nhọ việc
can thiệp của HK vào VN và kích động những trí thức ở miền Nam trở thành
« phản chiến ».
Cuộc chiến « hao mòn »
này đã làm cho HK hụt hơi, như chiến tranh Afghanistan hiện nay, trong khi dư
luận trong và ngoài nước chống lại cuộc chiến. Cuối thập niên 60 HK thay đổi
quan niệm về VN, đồng thời công nhận hai thực thể chính trị khác, cũng « đại
diện cho VN », là VNDCCH và CHMNCH. Lập trường của Hoa Kỳ thay đổi, kéo
chính phủ VNCH xuống ngang hàng với MTGPMN, chuẩn bị tư thế « đồng minh
tháo chạy ». Những hứa hẹn của Eisenhower, Kennedy (và Nixon sau này) trở thành vô
ý nghĩa. Tình trạng pháp lý của quốc gia Việt Nam do đó lại càng rắc rối
hơn.
Vấn đề kế thừa của VN, đáng lẽ chỉ
là « kế thừa chính quyền - succession gouvernement » lại trở thành « kế
thừa quốc gia – succession d’état ».
Kế thừa chính quyền thuộc phạm vi
« nội bộ » của quốc gia, « trong nhà đóng cửa dạy nhau »
trong khi kế thừa quốc gia thuộc phạm vi quốc tế. Chuyện nội bộ có thể thay đổi
hay sửa chữa nhưng chuyện thuộc phạm vi quốc tế thì sẽ rất khó khăn. Vấn đề là
việc hòa giải quốc gia phải được thể hiện nghiêm túc.
Các học giả VN cùng quyết định « vung
đao tự thiến ». Mất nước do đó trước hết là do mình.
5/ Giải pháp nào ?
Nội dung Nguyên tắc hướng dẫn của
LHQ về « Acquiescement – sự đồng thuận » đã ghi ở trên : « Những
tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã
tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý... Khi các điều kiện được hội đủ, Quốc gia liên hệ
có thể xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó
phải được tôn trọng ».
Các điều kiện đã hội đủ : CHXHCNVN là
nhà nước tiếp nối nhà nước VNDCCH, có đầy đủ thẩm quyền quốc gia về lãnh thổ,
trên phương diện thực tế cũng như trên phương diện pháp lý. TQ có thể bất cứ
lúc nào, dựa vào tuyên bố 1958, đòi hỏi VN tôn trọng.
Đứng trước đòi hỏi này, VN ở vào thế yếu về
cả hai mặt : pháp lý và tương quan lực lượng. Trong khi quan niệm của TQ
ngày càng cứng rắn: những gì thuộc chủ quyền lãnh thổ quốc gia đều thuộc lào
“lợi ích cốt lõi” của TQ.
Các giải pháp có thể xảy ra như sau:
1-
Trung Quốc có thể sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề chủ quyền. VN sẽ
đứng vào thế yếu vì vừa không đủ sức bảo vệ cũng như không có đồng minh tin cậy
giúp đỡ.
2-
Việt Nam cố gắng giải quyết vấn đề thông qua thuơng lượng, phù hợp với
“luật quốc tế” về việc không thực hiện được các tuyên bố đơn phương[xxxi] (công hàm 1958). Nhưng việc
thuơng lượng cho thấy VN khó đạt được giải pháp mà người dân dễ dàng chấp
thuận. VN cố gắng tập trung vào việc “hải phận 12 hải lý” ở các đảo, cho rằng
các đảo HS và TS là các đảo nhỏ. Trong khi TQ đi hai bước: đường chữ U và hiệu
quả Kinh tế độc quyền ZEE (200 hải lý) của các đảo. Nếu VN bác được đường chữ U
thì cũng khó bác bỏ vùng ZEE các đảo, bởi vì chính VN cũng đã từng chủ trương
như vậy. Sai lầm lớn của VN là anh có tư cách nào cấm người ta khi anh cũng chủ
trương y như vậy? Cho dầu VN có từ bỏ tuyên bố năm 1977 về ZEE cho các đảo,
cũng không thể ngăn cản được TQ. Đòi hỏi này không hề vi phạm Luật quốc tế về
Biển 1982.
3-
Mong muốn của VN hiện nay là giữ nguyên trạng. Để đạt được điều này VN
nhượng bộ cho TQ quyền lợi chiến lược ở các lãnh vực kinh tế, văn hóa, quân sự
v.v… với hy vọng TQ sẽ ký kết hiệp ước “COC” với ASEAN. Nhưng việc nhượng bộ
chiến lược, thể hiện qua một loạt hiệp ước vừa ký kết, sẽ đẩy VN đi nhanh vào
vòng lệ thuộc TQ. Chưa nói đến các hiệp ước vừa ký kết phải được xếp vào loại
“bất bình đẳng”. Bất kỳ kiệp ước nào ký kết giữa hai quốc gia cũng đều ảnh
hưởng đến sự độc lập (la souveraineté) của quốc gia. Các hiệp ước vừa ký, cho
thấy VN không khác TQ trong thời kỳ bị liệt cường phân xé, hậu bán thế kỷ 19,
phải ký các hiệp ước nhượng bộ cho nước ngoài những điều khoản không chấp nhận
được.
4-
Vấn đề “hòa giải dân tộc” để kế
thừa danh nghĩa VNCH tại HS và TS cho thấy sẽ không có có hội thực hiện. Các vụ
bắt bớ sinh viên Phương Uyên, Nguyên Kha vì tội “rải truyền đơn cờ vàng ba sọc
âm mưu chống chế độ…” cho thấy nhà nước CSVN vẫn bất dung mọi dấu hiệu thuộc về
chế độ VNCH. Hiện nay, VN cố thực hiện nghị quyết 36, “hồi chánh” các viên chức
VNCH cũ, cho vào dự hội thảo, cho lên truyền hình… để tuyên truyền chủ trương
của nhà nước CSVN. Lãnh đạo CSVN muốn dùng các “học giả” VN hốt những thang
thuốc có hiệu quả ru ngủ, đánh lạc hướng mọi sự thật cần phải biết về HS và TS.
Sắp tới, xương máu người dân VN
có thể sẽ phải đổ xuống để bảo vệ chủ quyền của VN tại biển Đông. Nguyên nhân
là do lãnh đạo CSVN không giữ lời hứa của họ với TQ. Dĩ nhiên có những giải
pháp hòa bình khác, thay vì chiến tranh, 1954-1975, cuộc chiến biên giới 1979,
cuộc chiến Kampuchia… Lãnh đạo CSVN luôn lựa chọn các giải pháp tồi tệ nhất.
Lãnh đạo CSVN sẽ tiếp tục đưa nhân dân VN “lên giàn lửa thiêu”, kích động tinh
thần dân tộc trong tầng lớp dân chúng, đẩy mũi dùi chống đối về phía một địch
thủ khác, để bảo vệ chế độ.
Từ xưa đến nay sĩ phu VN luôn phò
chính thống. Vì lẽ sống của họ phụ thuộc vào quyền lực của người lãnh đạo. Điều
này có thể thông cảm, do trường hợp giảm khinh. Nhưng sĩ phu VN hải ngoại không
thể vì chút quyền lợi nhỏ nhoi mà bán rẻ lương tâm của mình. Không bảo toàn
được lãnh thổ, máu xương người dân đổ xuống, trách nhiệm là do người lãnh đạo.
Nhưng phần trách nhiệm về lịch sử, về đạo đức và lương tri, là do sĩ phu nhận
lãnh, mà nhóm người hải ngoại lãnh phần nhiều.
5-
Việc đưa vấn đề tranh chấp ra một trọng tài quốc tế phân giải sẽ không
có hy vọng xảy ra, khi mà CSVN còn nắm quyền lãnh đạo. VN hiện nay còn không
dám lên tiếng công khai ủng hộ Phi trong vụ kiện TQ, huống chi lên tiếng thách
thức TQ giải quyết tranh chấp bằng các phương tiện của công lý quốc tế. Trong
khi sĩ phu vẫn còn đang dắt díu, người sau nắm chéo áo người trước, lầm lũi đi
theo “tấm chỉ đường của trí tuệ”, mà không biết sẽ đưa về đâu ?.
VN có nhiều hy vọng thắng kiện,
nếu và chỉ nếu, chính quyền VN (hiện tại hay trong tương lai) kế thừa danh
nghĩa của VNCH. Mà việc kế thừa chỉ có thể thực hiện bằng phương pháp “hòa giải
quốc gia”.
Việc “hòa giải quốc gia”, trên
bình diện chính trị, chỉ có thể thực hiện nếu tương quan lực lượng hai bên
“ngang cơ” với nhau. Nhưng khi việc “hòa giải quốc gia” là một phạm trù thuộc
đạo đức, tương quan lực lượng là tương quan giữa “cái đúng, cái sai”, giữa “đạo
lý và phi đạo lý”… Như vậy, lực lượng vô minh vẫn áp đảo trong xã hội.
Những tuyên bố về HS và TS, như
Luật biển 2012 của VN, tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng… đều không có giá trị pháp
lý trên phương diện quốc tế công pháp. Việc không dùng tiếng “ngụy” chỉ người
VNCH cũ, như có học giả vừa nói, không hề là dấu
hiệu của việc “hòa giải”, hay thể hiện hành vi kế thừa VNCH.
6-
Việc nhóm Quĩ Nghiên cứu Biển Đông cố gắng chứng minh VNCH và VNDCCH là
hai quốc gia đem lại hệ quả khẳng định tính chính đáng cho các ý kiến “tái lập lại” hay “phục hồi” nước VNCH đã hiện
hữu trước đây. Đây cũng là một “giải pháp” trong nhiều giải pháp để lấy lại
danh nghĩa chủ quyền ở HS và TS. Có điều giả phải trả quá đắt: đất nước phải
phân chia lần nữa.
[i] Ngoài TS Nguyễn Hồng Thao và hầu hết cảc nhà nghiên
cứu trong nước, còn có các ông Thái Văn Cầu, Tạ Văn Tài cùng một số nhân vật
khác ở nước ngoài.
[ii] Monique
Chemillier-Gendreau – La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys – NXB Harmattan 1996, page 123.
[iii] Nguyễn Hồng Thao,
bài đã dẫn link.
[iv] Monique
Chemillier-Gendreau, sdd, tr 123.
[v] Nguyen Quoc Dinh, Patrick Daillier, Mathias Forteau,
Alain Pellet - Doit International Public,
L.G.D.J, 8e Edition, đoạn 242, tr 405
[vi] Doit
International Public , sdd, đoạn 242, tr 405.
[vii] Doit
International Public , sdd, đoạn 237, tr 396.
[viii] Doit
International Public , sdd, đoạn 237, tr 396-397.
[ix] Jean Barale, L’ acquiescement dans la jurisprudence
internationale, In: Annuaire français de droit international, volume 11,
1965. pp. 389-427. http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1965_num_11_1_1827
[x] Texte adopté par la Commission du droit international
à sa cinquante-huitième session, en 2006, et soumis à l’Assemblée générale dans
le cadre de son rapport sur les travaux de ladite session (A/61/10). Le
rapport, qui contient également des commentaires sur le projet d’articles, sera
reproduit dans l’Annuaire de la
Commission du droit international, 2006, vol. II(2).
[xi] Texte adopté par la Commission du droit international…
tài liệu đã dẫn.
[xii] Essais
nucléaires (Australie c.
France; Nouvelle-Zélande c.
France), C.I.J. Recueil 1974, p. 267, par. 43, p. 269, par. 51 et p.
472, par. 46, p. 474, par. 53
[xiii] Souveraineté
sur Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South Ledge
(Malaisie/Singapour), arrêt, C.I.J. Recueil 2008, p. 12. ISSN
0074-4441 ; ISBN 978-92-1-071046-6
[xiv] Doit
International Public , sdd, ghi chú 5. Đoạn 239, tr 400.
[xv] Gilbert Caty, Les
Statut Juridique des Etats Divisés,
Ed. A. Pedone 1969.
[xvi] Quốc gia theo định nghĩa của Quốc tế Công pháp :
Doit International Public , sdd, tr
449-469.
[xvii] Gilbert Caty, sdd, tr.15.
[xviii] Việc gia nhập LHQ chưa chắc là một yếu tố để chứng
minh lãnh thổ đó là một quốc gia nếu ta xét trường hợp của Ukraine và Bielorussis.
Thật vậy, hai xứ này, trong thời kỳ thuộc Liên bang Xô viết, đã gia nhập LHQ
(từ khi LHQ mới thành lập). Hai « quốc gia » này thực ra chỉ là một
phần « lãnh thổ » của URSS mà thôi.
[xix] Đây là lập trường của nhiều học giả trên thế giới.
Một số thí dụ : Gilbert Caty, in Les
Statut Juridique des Etats Divisés ; James Crawford, in The Creation the States in International Law,
tr 472-477. Conrad G. Buhler, in State
Succession and Membership in International Organisations – Legal Theories
versus Political Pragmatism, tr94-103…
[xx] Conrad G. Buhler, sdd,
tr 77.
[xxi] State Department,
4-3-1966, « The legality of US
participation in the Defense of Vietnam” dẫn từ Gilbert Caty, Les Statut Juridique des Etats Divisés,
sdd, tr 12.
[xxii] Conrad G.
Buhler, State Succession and Membership
in International Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism
, tr 68-113.
[xxiii] Nguyen Duy Tan Joële. La représentation du Viet-Nam dans les
institutions spécialisées. In: Annuaire français de droit international,
volume 22, 1976. pp. 405-419. doi : 10.3406/afdi.1976.1996 http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1976_num_22_1_1996
[xxiv] Tuyên bố CHXHCNVN
gởi chính phủ Thụy Sỹ, dẫn từ Conrad G. Buhler, sdd, tr 104 : The S.R.V will continue the participation of
the DRV and the RSV in the four “Geneva convention of 1949” concerning the
protection of war civil victims with the same observations as those set forth
by the DRV and the SRV. Ta thấy VN đã sử dụng chữ “tiếp tục” thay vì “kế
thừa” VNDCCH.
[xxv] Conrad G. Buhler, State Succession and Membership in
International Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism, tr
107.
[xxvi] Conrad G. Buhler,
sdd, tr. 87.
[xxvii] Conrad G. Buhler,
sdd, tr 107.
[xxviii] Đương nhiên, các
« qui tắc » về chiến tranh này đều do họ đặt ra, dự tính có khi từ
30-40 năm trước, nếu chúng ta tin theo tài liệu của Cf. Major J. B. Kelly, «
Legal Aspects of Military Operations in Counterinsurgency », Military Law
Review, juillet 1963
[xxix] Isoart Paul. Les conflits du
Viêtnam. Positions juridiques des États-Unis. In: Annuaire français de
droit international, volume 12, 1966. pp. 50-88. http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1966_num_12_1_1870
[xxx] Isoart Paul, như trên.
[xxxi] Doit
International Public , sdd, đoạn 239, tr 402.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.