Có ý kiến nói rằng năm 2012 là năm
« ý
thức về địa chính trị trở thành ý thức chủ đạo trong các suy nghĩ về chính trị
của người Việt. » Nếu ý kiến này đúng như vậy, thì đã có điều gì dường
như quá trễ để mà bàn luận nữa.
Từ tháng 8 năm 1992 nội bộ
trong giới lãnh đạo Trung Quốc đã luân chuyển tài liệu nội dung « sinh tồn
không gian - shengcun kongjian » đề cập đến chủ quyền của TQ
tại vùng Trường Sa. Tập tài liệu xuất bản năm 1995 mang tựa đề dịch ra tiếng
Pháp « La lutte pour des frontières souples » (Tranh đấu cho đường
biên giới mềm) lấy lại nội dung của tài liệu trên, trình bày việc TQ phải chiếm
hữu những nguồn nhiên liệu dầu khí cần thiết trong vùng Trường Sa cho việc hiện
đại hóa đất nước. Nhưng không phải chỉ từ năm 1992 TQ mới lập chiến lược về một
« không gian sinh tồn », mà việc này đã đề cập từ rất sớm, do Tưởng
Giới Thạch khởi xướng. Nếu chỉ tính từ năm 1992 thì TQ cũng đã đi trước VN đến
20 năm. Nói « quá trễ để mà bàn luận nữa » cũng còn nhẹ nhàng lắm.
Từ cuối thập niên 90 người viết bài
này đã viết nhiều bài viết cảnh báo về việc hiện đại hóa hải quân của TQ cũng
như về chiến lược gậm nhắm lần hồi toàn bộ biển Đông. Bài gần đây nhứt, tháng
8-2007, bài « Tranh chấp Trường Sa - Hậu quả những sai lầm chiến
lược » nói về « không gian sinh tồn » của Trung Quốc cũng như
những sai lầm của lãnh đạo VN khi đối đầu với các biến cố xâm lấn của TQ tại
vùng biển này.
Nếu bây giờ VN mới chuẩn
bị, sẽ không thể cứu vãn bất kỳ chuyện gì. Nhất là năm 2013 sắp tới sẽ
là một năm khó khăn cho VN.
Tháng 6 năm 2012, Luật Biển của VN
được QH thông qua, sẽ có hiệu lực từ ngày 1-1-2013. Vừa khi công bố, phía TQ đã
có những phản ứng mạnh, về ngoại giao cũng như về biểu dương lực lượng quân sự.
Các học giả TQ lên tiếng cảnh cáo : « Trung Quốc nên làm cho
các quốc gia hiểu rõ rằng một khi đụng chạm tới chủ quyền của Trung
Quốc thì Trung Quốc sẽ bóp nghẹt không gian và thời gian xâm phạm của
họ cho đến khi nào họ rút lui thì thôi ». Một bài báo khác thì hối
thúc : « Trung Quốc nên có những ý tưởng cứng rắn hơn, bao
gồm cả việc sử dụng vũ lực để bảo vệ quyền lợi của mình khi cần
thiết để cho thấy sự quyết tâm và khả năng bảo vệ chủ quyền ». Một
số học giả thuộc các nước ASEAN đã cảnh báo rằng VN đã làm khu vực trở nên căng
thẳng sau khi cho ra đời bộ Luật Biển 2012. Các động thái của phía TQ, từ tháng
6 năm 2012, liên tục đã có những hành động rất cương quyết bày tỏ quyền
« tài phán » của họ tại các đảo HS và trên một số khu vực thuộc TS.
TQ cũng tỏ thái độ rất cương quyết đối với Nhật trong tranh chấp Senkaku/Điếu
Ngư. Điều nên nhớ lại là các vụ đánh HS, đánh TS đều xảy ra trong các tháng
giêng, tháng 3… là những tháng nằm trong chu kỳ biển êm (không bão) trong khu
vực (tháng 12 đến tháng 5). Lý do mà TQ nại ra khi đánh chiếm các đảo là
« giải phóng, đưa về đất mẹ các vùng lãnh thổ nằm trong tay của
địch ». Do đó những tháng đầu của năm 2013 sẽ là thời gian quyết định.
Vì vậy, nếu nhận định đã ghi
trên : « ý thức về địa chính trị trở thành ý thức chủ đạo trong các
suy nghĩ về chính trị của người Việt » là đúng, kể cả trong giới lãnh đạo
của VN, có lẽ sẽ không còn gì để nói. Nhưng người viết không tin vậy. Chắc chắn
phía lãnh đạo VN đã có những chuẩn bị, nếu không sẽ không bao giờ cho ra đời bộ
Luật Biển 2012, trong đó khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của VN tại HS
và TS. Dầu vậy, người viết rất hoài nghi về các biện pháp đối phó của VN. Có
thể việc cho ra đời bộ Luật chỉ nhằm xoa dịu dư luận trong nước, như trường hợp
tranh chấp giữa Vénézuela
và Colombie về quần đảo Los Monjos. Nhưng còn quá sớm để khẳng định.
Bài viết này nhắc lại ý nghĩa của
lý thuyết « không gian sinh tồn » đồng thời so sánh các chi tiết của
lý thuyết này so với những gì mà TQ đã hay đang thực hiện. Cuối cùng thử tiên
đoán TQ có thể nuốt trọn biển Đông hay không ? Các giải pháp nào có thể giải
quyết ?.
Không gian sinh tồn, tạm dịch từ
“L’Espace Vital - Lebensraum ”, tác phẩm nghiên cứu về “địa lý chính trị” –
Géopolitique – nổi tiếng của Friedrich Ratzel xuất bản năm 1902, đề cập 7 định
luật liên quan đến sự thành hình của một đại cường quốc :
1. Không gian (sinh tồn) của một
dân tộc được mở rộng đồng thời với văn minh của dân tộc đó. Một dân tộc có nền
văn minh tiến bộ sẽ đồng hóa các dân tộc kém văn minh hơn.
2. Lãnh thổ quốc gia sẽ phát triển
theo tỉ lệ thuận với sức mạnh kinh tế và đội ngũ thương buôn của quốc gia cũng
như chủ thuyết phát triển quốc gia. Việc bành trướng vì thế chỉ tùy thuộc vào ý
chí và phương tiện.
3. Việc bành trướng của cường quốc
được thực hiện qua phương cách « hấp thụ và tiêu hóa » các nước nhỏ.
4. Đường biên giới quốc gia không
xác định (frontière vivante). Biên giới xác định chỉ có giá trị tạm thời, chỉ
để đánh dấu giữa hai giai đoạn bành trướng.
5. Trong quá trình bành trướng, đất
(bây giờ là biển) là mục tiêu chính.
6. Mục tiêu bành trướng là
các quốc gia yếu kém ở kế cận. Sự bành trướng của cường quốc không thể tiến triển
nếu quốc gia lân bang cũng là cường quốc.
7. Hiện tượng bành trướng
có khuynh hướng lan rộng do việc tranh dành lãnh thổ của các quốc gia.
Hitler lấy hứng từ lý
thuyết này, cũng như từ Karl Haushofer trong cuốn « Dai
Nihon » 1912, để viết cuốn « Mein kampf » chủ trương về một
« chủng tộc siêu việt », thành lập IIIe Reich (Đức Quốc Xã), mở ra Thế
chiến II. Những nhà chiến lược hiện đại cho rằng lý thuyết « địa lý
chiến lược » của Ratzel là sơ khai, lỗi thời. Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, lý
thuyết này là một vấn đề thời sự cho trường hợp Trung Quốc, một cường quốc đang
khẳng định tư thế của mình trong khu vực.
Có thể nói Tưởng Giới
Thạch là cha đẻ của chủ thuyết « không gian sinh tồn » của TQ qua nội dung câu tuyên bố : « le
territoire de l’Etat chinois est délimité par les besoins de son existence et
par les bornes de sa culture », « lãnh thổ của Trung Quốc được xác định do
những nhu cầu cho sự hiện hữu của dân tộc này và bằng các cột mốc của nền văn minh
Trung Hoa ».
Tư tưởng này đã được Đặng
Tiểu Bình thừa kế, chuyển giao cho các thế hệ lãnh đạo sau này là Giang Trạch
Dân, Hồ Cẩm Đào và hiện nay Tập Cận Bình. Tuyên bố của tưởng Giới Thạch được
giản lược như sau : TQ phải chiếm tất cả các nguồn năng lượng ở biển
Đông vì đó là không gian sinh tồn của dân tộc Hoa. Từ đầu năm 2010 ta nghe
loáng thoáng từ viên chức ngoại giao TQ : Biển Đông là lợi ích cốt lõi của
TQ. Ý kiến này bị HK bác bỏ. Nước này cho rằng HK cũng có lợi ích ở biển Đông. Nhưng
ta thấy tư tưởng của TQ về một « không gian sinh tồn » là có thật.
Bảy định luật của Ratzel
đã hoàn toàn chứng nghiệm cho dân tộc Hán từ lập quốc đến ngày hôm nay.
Định luật 1 : Nền văn minh
Hán Tộc đã đồng hóa tất cả các dân tộc khác, kể các các dân tộc dũng mãnh đã
chiếm hữu và trị vì Trung Quốc. Lúc đầu lập quốc, dân tộc Hán chỉ có một vùng
đất nhỏ, nhưng sau đó bành trướng ra, đồng hóa các dân tộc chung quanh. Văn hóa
các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Liêu, Kim… đã không còn dấu vết ở Trung Quốc.
Định luật 2 : Hiện
đang thích ứng cho tình trạng TQ hiện nay. Sự vượt trội về kinh tế, cho phép nước
này hiện đại hóa quân đội. Những đòi hỏi của TQ ở biển Đông hay với Nhật qua
tranh chấp Senkaku, cho thấy ý chí muốn chinh phục của nước này.
Định luật 3 : Định luật
này cùng với định luật 1 đã được dân tộc Hán áp dụng từ thời mới lập quốc và
còn đang tiếp tục cho đến hôm nay. Dân tộc Hán luôn bành trướng và tiêu diệt
(hay Hán hóa) tất cả các dân tộc khác. Hiện nay việc đồng hóa đang được thực hiện
ráo riết tại Tây Tạng.
Định luật 5 cho thấy vẫn
chưa lỗi thời, TQ đặt ra mục tiêu phải chinh phục TS và Senkaku. Nhưng định
luật này cần cập nhật thêm vì chủ đích của việc chinh phục sẽ là vùng biển, là
tài nguyên chứa đựng trong đó.
Định luật 6 phản ảnh rõ rệt
thái độ bành trướng của Trung Quốc ngày hôm nay : VN và Phi, hai nước yếu, nằm
trong tầm nhắm của TQ. Trung Quốc không bao giờ muốn thấy một Việt Nam giàu
mạnh. Một nước Việt Nam giàu, mạnh sẽ ngăn cản sức bành trướng của Trung Quốc. Về
kinh tế, ta thấy kinh tế VN trên đà sụp đổ, do đó hiện nay rất phụ thuộc vào
TQ. Đó cũng là một biến dạng của lý thuyết « không gian sinh tồn »,
biến VN thành một chư hầu kinh tế.
Từ định luật 6, ta thấy
cuộc chiến giữa TQ và Nhật chắn chắn sẽ xảy ra. TQ không thể trở thành đại
cường nếu có nước Nhật mạnh ở kế bên (và ngược lại).
Định luật 7 cho thấy có
nhiều điều cần điều chỉnh lại. Đất đai không còn là mục tiêu tranh chấp mà là
việc tranh dành thị trường, dành vùng ảnh hưởng, hay việc xung đột giữa các nền
văn minh (Thiên chúa - Hồi giáo) như hiện nay, theo thuyết của Samuel P.
Huntington.
Nói chung, cho dầu đã
thành hình từ hơn một thế kỷ, lý thuyết này vẫn còn thực dụng.
Về định luật 6, có nhiều
điểm cần bàn luận sâu rộng hơn vì lý do chiều dài lịch sử quan hệ giữa VN và
TQ. Nhưng điểm chủ yếu là, các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc từ bao đời nay đều có
chung quan điểm : Trung Quốc không muốn một Việt Nam thống nhất và mạnh. Họ
tìm mọi cách làm cho Việt Nam suy yếu để bảo đảm an ninh và thực hiện nhu cầu
bành trướng.
Trong thời chiến tranh
1954-1975 mọi người đều biết Trung Quốc sẵn sàng giúp súng đạn cho CSVN đánh Mỹ
đến người Việt Nam cuối cùng.
Ngay sau khi thống nhất
1949, Trung Quốc có cả một sách lược đào tạo các cán bộ tương lai lãnh đạo Việt
Nam. Đỗ Mười và Lê Đức Anh cũng thuộc đội ngũ cán bộ này. Vì thế chính trị đối ngoại
của Việt Nam trong một thời gian rất dài luôn phù hợp với quan niệm địa lý
chiến lược của Trung Quốc.
Người ta ca ngợi nhiều về
tư tưởng của ông Hồ Chí Minh (vận dụng từ tư tưởng quốc tế Marx-Lenin), cho nó
có một giá trị thực dụng dựng nước bất khả tranh nghị và đưa nó lên hàng tư tưởng
chiến lược phát triển quốc gia. Nhưng đây là một sai lầm lớn, vì nếu xét tỉ mỉ,
tư tưởng của ông Hồ luôn phù hợp với chính sách bành trướng của Trung Quốc.
Người ta cho rằng ông Hồ là người « yêu nước », nhưng quan niệm về quốc gia của
ông Hồ là một cái gì rất không rõ rệt : « Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa ».
Nhiều học giả nước ngoài phê bình Việt Nam lấy đất nước để xây dựng XHCN trong
khi Trung Quốc lấy XHCN xây dựng đất nước. Trong tư tưởng của ông Hồ người ta
thấy thấp thoáng một « chủ nghĩa nước nhỏ », đu giây giữa hai thế lực áp đảo
là Liên Xô và Trung Quốc, khai thác những mâu thuẩn của hai thế lực này để thực
hiện mưu đồ cá nhân và làm tròn bổn phận của một thành viên quốc tế vô sản
gương mẫu.
« Chủ nghĩa nước nhỏ » của
ông Hồ đã trở thành «chủ nghĩa chư hầu », cam chịu lệ thuộc, làm tay chân cho
Nga và Tàu bành trướng chủ nghĩa hơn là tự chủ và độc lập dân tộc.
Trung Quốc cũng là một
trong những tác nhân chánh trong vấn đề Việt Nam chia cắt tại vĩ tuyến 17. Theo
nhiều nhân chứng ghi lại, trong cuộc chiến (1954-1975) phía Bắc Kinh luôn chủ trương
2 nước Việt Nam và họ đã làm nhiều thủ thuật để gây trở ngại cho phe miền Bắc
trong các chiến dịch tiến công miền Nam. Ngay sau khi Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam,
trong những ngày cuối cùng, Bắc Kinh đề nghị với một số lãnh đạo miền Nam,
thông qua tòa đại sứ Pháp, Trung Quốc sẽ dàn quân trên biên giới Việt Trung làm
áp lực, ép Hà Nội rút quân và ngồi vào đàm phán.
Làm thế vì Trung Quốc
không bao giờ muốn một Việt Nam thống nhất. Vì nếu thống nhất VN sẽ mạnh.
Lo sợ một VN mạnh sau khi
thống nhứt, chủ trương của Trung Quốc là tìm mọi cách để Việt Nam suy yếu ở
phía Nam.
Trong khoảng thời gian
1975-1978 Việt Nam say men chiến thắng, dựa vào Liên Xô hống hách với Trung Quốc.
Trung Quốc liên minh với Hoa Kỳ bao vây Việt Nam, ngăn chắn sự bành trướng của
Liên Xô. Cuộc chiến 10 năm Kampuchia, Đặng Tiểu Bình giúp đỡ tận tình Khmer đỏ,
chủ trương « làm cho VN chảy máu đến chết ». Đây là cái bẩy hiểm độc mà
Đặng Tiểu Bình gài cho lớp lãnh đạo « phản phúc » ở Hà Nội.
Thực tế và lịch sử cho
thấy Khmer đỏ của tập đoàn Pol Pot là một lũ diệt chủng, cả thế giới kinh tởm
và lên án. Lý ra, khi can thiệp vào Kampuchia, Việt Nam đã có vai trò của một
anh hùng cứu dân độ thế. Thế nhưng hầu như cả thế giới lúc đó chống lại Việt Nam.
Thái độ hung hăng của Việt Nam, quá thân Liên Xô, đòi đánh cả Thái Lan, đã làm
cho khối ASEAN và Hoa Kỳ ủng hộ lập trường Trung Quốc, giúp Khmer đỏ, bao vây
Việt Nam về mọi mặt. Hậu quả sai lầm này vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm đến Việt Nam
hôm nay.
Đến khi VN bang giao với
Hoa Kỳ, Trung Quốc luôn tìm cách phá bỉnh. Vụ ngưng ký hiệp ước thương mãi với
Hoa Kỳ, để cho Trung Quốc ký trước, năm 2000 là một thí dụ. Trung Quốc không
muốn Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với Hoa Kỳ. Trung Quốc biết rằng chỉ có Hoa Kỳ
mới có thể giúp Việt Nam phát triển bắt kịp các nước rồng, hổ trong vùng.
Ngoài mục tiêu phải làm
Việt Nam suy yếu, Trung Quốc hiện đại hoá quân đội của họ, nhất là hải quân, để
bành trướng ra biển Đông. Hải quân TQ vừa được trang bị hàng không mẫu hạm.
Pháo binh của TQ được trang bị các dàn hỏa tiễn chống tiếp cận, tầm xa trên
1.200km, nhắm vào các chiến hạm, hàng không mẫu hạm của HK, không cho lực lượng
hải quân của nước này tiếp cận vùng « ảnh hưởng » của họ. Không quân
cũng trang bị loại phi cơ tiêm kích tàn hình, có khả năng chống các chiến đấu
cơ F16 của HK. Về không gian, TQ cũng đã có bướt nhảy vọt đáng nể. TQ là nước
thứ ba đưa người ra không gian, sau Nga và HK. TQ cũng vừa thành lập hệ thống
vệ tinh định vị Bắc Đẩu, hỗ trợ cho đường bay, làm tăng độ chính xác của hỏa
tiễn. Trong các năm sau này, dựa vào sức mạnh kinh tế, TQ phân hóa nội bộ các
nước ASEAN, bắt chẹt HK buộc phải nhượng bộ chiến lược. Trong khi đối với các
nước như VN, Phi, là các nước yếu, TQ đã biểu lộ thái độ gây hấn qua các việc
cắt cáp tàu thăm dò khoa học của VN đang hoạt động trong vùng biển ZEE của VN,
hay chiếm bãi cạn Scarborough của Phi. Tuy vậy, sau cuộc khủng hỏa ở dãi Gaza
mới đây, các hỏa tiễn của Hamas bị hệ thống phòng thủ của Do Thái bắn chận thành
công với mức độ 90%, điều này chứng tỏ hiệu quả các hệ thống phòng thủ không
gian của HK là không thể phủ nhận. Thái độ của TQ dịu giọng đối với HK. Tuy
nhiên, việc này làm cho tinh thần của dân Nhật lên cao. Chính phủ vừa lên sẽ
giúp Nhật cứng rắn hơn trong vụ tranh chấp Senkaku. Mặt khác, HK cam kết ủng hộ
Nhật trong tranh chấp Senkaku nếu TQ dùng vũ lực.
Vì vậy, trước mắt, khó có
thể hình dung cuộc xung đột giữa Nhật và TQ. Nhưng về lâu dài, chắc chắn cuộc
chiến sẽ bùng nổ. Không thể có hai con hổ trong cùng một khu rừng được. Định
luật 6 của lý thuyết « không gian sinh tồn » là : 6. « Sự
bành trướng của cường quốc không thể tiến triển nếu quốc gia lân bang cũng là
cường quốc ».
Vì vậy hướng tiến của TQ
trước mắt sẽ là phía nam, khu vực biển Đông hiện nằm trong tầm nhắm của họ. Các
động thái như cho thành lập thành phố Tam Sa, đầu tư 1,6 tỉ đô la cho khu vực
này, cùng với các hành vi gây hấn với VN, Phi trong năm qua cho thấy hậu ý của
TQ.
Nhưng phía VN, người dân
VN làm sao có thể chấp nhận. Người dân Việt Nam đã an ổn làm ăn trên vùng biển đó
từ ngàn năm nay. Không một lý do hay một áp lực nào bây giờ có thể buộc họ bỏ
vùng biển này. Đó là « không gian sinh tồn » của dân tộc VN.
Các thế hệ lãnh đạo của TQ
đã biết việc này từ hơn ½ thế kỷ nay. Họ biết, nếu thực hiện tư tưởng của Tưởng
Giới Thạch một cách gấp gáp là đi ngược với tinh thần của quốc tế công pháp, sẽ
bị cả thế giới lên án. Vì vậy, trong chiến tranh VN, họ đã gài bẫy để phía CSVN
ký nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS. Thể hiện qua tấm công hàm 1958 cùng với
những tuyên bố và nhiều tài liệu khác của VNDCCH.
Việc tấn công chiếm TS như
thế là TQ đã chuẩn bị khá đầy đủ, về pháp lý cũng như về phương tiện.
Phía VN đã chuẩn bị gì về
các toan tính của TQ ?
Ngày 7 tháng 8 năm 1979,
trong lúc sự thù nghịch giữa VN và TQ lên đến cao độ, sau khi cuộc chiến biên
giới phía TQ đã san thành bình địa các tỉnh của VN giáp biên giới, bộ Ngoại
giao VN ra tuyên bố về HS và TS, phủ nhận nội dung tuyên bố 1958 của Phạm Văn
Đồng cũng như các tuyên bố 1965 về hải phận của TQ tại HS. Theo nội dung tuyên
bố này VN chỉ công nhận 12 hải lý về lãnh hải của TQ.
Tuyên bố này là một « tuyên
bố đơn phương » nhằm phủ nhận nội dung của một tuyên bố đơn phương khác đã
ra đời trước đó. Hiệu lực của tuyên bố này còn nhiều tranh cãi. Thái độ của TQ
dĩ nhiên là lên án và bác bỏ lý lẽ của CHXHCNVN trong tuyên bố này. Chưa có một
học giả nào trên thế giới nói về hiệu lực pháp lý của tuyên bố 7-8-7979.
VN ra Luật Biển 2012, đây
là một bộ luật có hiệu lực trong phạm vi « quốc gia » , trong khi
tuyên bố 1958 là một tuyên bố thuộc phạm vi quốc tế. Theo tập quán quốc tế,
luật quốc tế có giá trị cao hơn luật quốc gia. Luật trong phạm vi quốc gia
không có giá trị phủ định những ràng buộc pháp lý của công hàm 1958 (một tuyên
bố quốc tế).
Bộ luật Biển 2012 chỉ có
hiệu lực khi tuyên bố 1979 có hiệu lực. Nhưng nếu tuyên bố 1979 không có hiệu
lực pháp lý, mà điều này hầu như chắc chắn, các hành vi thể hiện quyền tài phán
của TQ tại vùng biển TS, kể cả các hành vi sử dụng vũ lực sau này nếu có, sẽ là
các hành động chính đáng.
Từ lâu người viết đã đề
nghị một giải pháp nhằm hóa giải tuyên bố đơn phương 1958, qua việc kế thừa
VNCH thông qua chính sách hòa giải dân tộc. Nhưng việc này dường như chỉ ảnh
hưởng đến một số người. Cấp lãnh đạo đảng CSVN do lo ngại mất chính nghĩa, đưa
đến việc đảng cSVN mất quyền lãnh đạo, do đó không màng tới.
VN sẽ làm thế nào để chống
lại TQ, trong khi trên bình diện công pháp quốc tế, danh không chánh thì ngôn
không thuận ? Làm thế nào có thể cầu cứu LHQ ? Không phải năm 1988,
khi TQ đánh các đảo TS, lãnh đạo VN đã từng kêu gọi triệu tập Hội đồng An ninh
LHQ, nhưng đã bị bác hay sao ?
Ta thấy thái độ của VN
hiện nay, thể hiện qua các viên chức cao cấp về quân sự, là đề cao công lao của
TQ và nhắc đến một giải pháp « khai thác chung ». Họ hy vọng TQ sẽ
không đánh chiếm TS. Ý tưởng « khai thác chung » nên biết là đến từ ý
kiến của Đặng Tiểu Bình. Nhưng cái thòng lọng đằng sau là « khai thác
chung » nhưng « chủ quyền thuộc TQ ». Tức khi chấp nhận « khai
thác chung » là chấp nhận vùng tranh chấp thuộc TQ.
Người viết này này đã từng
khuyến cáo, lãnh đạo VN phải định hướng lại chiến lược quốc gia, nhận rõ đâu là
bạn đâu là thù, phải coi quyền lợi dân tộc là tối thượng. Hiện nay, tại VN đang
ra rả chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, tức đã minh thị gọi HK là kẻ thù.
Nhưng thực tế, không nước nào có thể giúp VN ra khỏi móng vuốt của TQ ngoài HK.
Ta thấy Phi đã lôi kéo (thiếu điều van lạy) để HK ký lại hiệp ước An ninh Hỗ
tương, để cho quân nước này đóng lại các căn cứ tại Phi.
Thái độ của lãnh đạo VN
hiện nay là chấp nhận mất tất cả cho Tàu.
Lý ra, nhà nước VN phải lấy
bớt ngân sách cho công an, giải tán ít nhất 2/3 đám côn đồ ức hiếp dân này,
thanh lọc, chỉ chọn những người có ý chí phục vụ cho dân ; lấy lại ngân sách
dành cho tổng cục 2 (nghe nói là làm tay sai cho Tàu) ; dẹp bỏ hệ thống đảng ủy
song song với hệ thống nhà nước, dẹp đám đảng viên ăn hại đát nát, ăn bám vào
dân, là gánh nặng cho đất nước ; thanh lọc lại toàn bộ nhân sự bộ Quốc Phòng,
tuyển những người trong sạch, có khả năng quân sự, tất cả dồn vào hiện đại hóa
quân đội. Sau đó phải có quan hệ tốt đẹp với HK, phải thả toàn bộ những người
tranh đấu cho một VN tốt đẹp hơn, thả hết tù chính trị, những người khác chính
kiến.
Có như thế mới tổng hợp
được lực lượng, trong và ngoài nước cùng đồng minh, Việt Nam mới có khả năng
làm cho đối phương nhượng bộ.