LTG : Bài viết từ năm 2009, có bổ túc, đăng lại
để suy ngẫm thêm về tình bạn 16 chữ vàng của hai nước Việt-Trung.
1.
Tên gọi cuộc chiến :
Thông
thường người ta đặt tên một cuộc chiến bằng tên của nơi xảy ra cuộc chiến hoặc qua
« mục đích » của nó. Cuộc chiến Việt-Trung 1979, xảy ra từ ngày 17
tháng 2 năm 1979 và chấm dứt ngày 5 tháng 3 năm 1979. Phía CSVN gọi đó là cuộc chiến
« xâm lược » : « Chiến tranh xâm lược ngày 17-2-1979 là
đỉnh cao của những hành động thù địch của lãnh đạo TQ. »
Nhưng
sự thật thì chỉ hơn 2 tuần sau khi cuộc chiến mở đầu thì TQ tuyên bố đã đạt
được mục tiêu và đơn phương rút quân về. Một số lãnh thổ của VN bị TQ chiếm và
sát nhập vào TQ, một số tỉnh thành của VN tiếp giáp với TQ đều bị lính TQ cướp
sạch, phá sạch, dân lành vô tội bị giết thê thảm. Ý nghĩa của từ « xâm
lược » rất nặng nề : xâm là tiến vào, lược là cướp. Một số tài liệu
cho biết chỉ trong vòng 20 ngày xung đột đã làm cho hai bên bị mất từ 60 ngàn
đến 100 ngàn người. Con số phía bên TQ hy sinh vào khoảng 30 đến 50 ngàn. Con
số quá lớn, cái giá quá đắt để có thể bỏ ra cho phía bên gây chiến, nếu hiểu cuộc
chiến theo ý nghĩa của « xâm lược ».
Các
học giả nước ngoài gọi cuộc chiến này qua nhiều tên khác nhau. Một số gọi là
« chiến tranh biên giới – la guerre des frontières ». Điều này
không sai vì địa bàn cuộc chiến chỉ giới hạn ở các vùng biên giới. Tên này cũng
được đặt cho cuộc chiến Kampuchia, vì nguyên nhân nó bắt nguồn từ các xung đột về
biên giới.
Phía
TQ gọi cuộc chiến đó là « bài học » của TQ dạy cho VN. Một số học giả
khác gọi đó là cuộc chiến mà TQ « đưa VN trở về vị trí của mình ».
Nhưng
đâu là mục tiêu thật của TQ trong cuộc chiến ?
2.
Tìm hiểu ý đồ của TQ qua chính sách đối ngoại từ 1949-1979 :
Trong
vòng 30 năm TQ đã không ngừng thay đổi chính sách đối ngoại, từ lý thuyết đến
thực tế. Tuy nhiên các ưu tiên (hay mục tiêu chiến lược) của TQ, qua các thế hệ
lãnh đạo TQ, không hề thay đổi. Mục tiêu chiến lược này được các học giả nước
ngoài nhận diện. Đó là : 1/ đưa TQ lên hàng nước lớn – 2/ dành lại ảnh
hưởng của TQ ở các chư hầu cũ (se faire admettre des puissances mondiales - reconstituer
le domaine impérial). Hai ưu tiên này cũng được lãnh đạo CSVN nhận diện năm
1979 : Chiến lược của những người lãnh đạo TQ có những thay đổi rất lớn.
Nhưng có một điều không thay đổi : đó là mục tiêu chiến lược muốn nhanh
chóng đưa TQ trở thành một cường quốc
bậc nhất thế giới và thực hiện mưu đồ bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước
lớn của họ đối với các nước khác.
Người
ta có thể chứng minh việc trên qua lời nói và hành động của các thế hệ lãnh đạo
TQ.
Lãnh
tụ Mao Trạch Đông, nhân hội nghị BCHTU đảng CS TQ năm 1956, đã nói : Chúng
ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật
và công nghiệp. Không thể chấp nhận rằng sau một vài chục năm chúng ta vẫn chưa
trở thành cường quốc số 1 của thế giới.
Tháng
9 năm 1959, tại hội nghị quân ủy trung ương, họ Mao nói : chúng ta phải
chinh phục trái đất, đó là mục tiêu của chúng ta.
Cái
gọi là « domaine impériale – vùng ảnh hưởng của thiên triều » được một
lãnh tụ khác, ông Tôn Dật Tiên, cha đẻ của thuyết Tam Dân và Quốc Dân Đảng, xác định một cách rõ rệt như sau : các
quốc gia Việt Nam, Triều Tiên, Miến Điện, đảo Bornéo, đảo Soulou, đảo Java ,
Tích Lan, Népal, Bhoutan hay các đảo Đài Loan, Bành Hồ, Rukyu dều là lãnh thổ
của TQ bị mất vào đầu thế kỷ.
Mao
Trạch Đông thì xác định tương tự vùng
ảnh hưởng của TQ qua cuốn « Cách mạng TQ và đảng CS TQ » năm
1939 : « Các nước đế quốc sau khi đánh bại TQ, đã chiếm các nước
phụ thuộc TQ : Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ
và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam.. »
Tưởng
Giới Thạch, lãnh tụ Quốc Dân Đảng, người có tinh thần dân tộc cực đoan hơn hết,
khẳng định mạnh mẽ hơn
: « le
territoire chinois est délimité par les besoins de son existence et par ses
bornes de sa culture -
lãnh thổ của TQ được xác định do sự cần thiết để hiện hữu của TQ và do những
dấu ấn văn hóa TQ ». Như thế nơi nào mà dân Hán cần để sống, nơi nào có
văn hóa Hán, các nới đó đều của TQ.
Sách
Sơ lược lịch sử TQ Hiện đại xuất bản năm 1954, lãnh thổ TQ bao gồm các nước
chung quanh, kể cả Đông Nam Á và vùng biển Đông.
Điều
này cho thấy, các thế hệ lãnh đạo TQ, quốc cũng như cộng, thảy đều có cùng một
sứ mạng, một mục tiêu phải thực hiện : quang phục TQ, đưa TQ lên lại vị
trí hàng đầu thế giới, dành lại ảnh hưởng đã bị mất của TQ từ hậu bán thế kỷ
19.
Do
mục tiêu chiến lược đã rạch ròi, do đó quan niệm bạn – thù của các thế hệ lãnh
đạo TQ không nhất quán. Theo thời gian, bạn có thể trở thành thù địch, hay
ngược lại, thay đổi tùy theo tư thế hay lập trường có lợi cho TQ. Họ không
« trụ » vĩnh viễn vào bất kỳ một cái gì, tất cả chỉ nhằm phục vụ cho
quyền lợi của đất nước TQ.
-
Từ vị trí bạn bè, đồng minh của Liên Xô, cùng chia xẻ chung một ý thức hệ cộng
sản chủ nghĩa, cùng đứng một bên chống lại thế giới tự do mà HK đứng đầu, TQ bỗng
ngoặc lại, trở thành đối thủ của nước này (TQ chỉ có thái độ hòa hoãn với Liên
Xô vào lúc mà khối này trên đà sụp đổ). Bề mặt TQ chống LX vì LX theo
« chủ nghĩa xét lại », nhưng bề trong điều này tạo cho TQ tư thế kế
thừa chủ nghĩa Mác-Lê chính thống trong khối XHCN và thế giới Thứ Ba (Tiers
Monde). TQ chống LX mặt khác cũng vì lo ngại ảnh hưởng của LX bành trướng sang
các vùng có truyền thống TQ như vùng Mãn Châu, Tân Cương. Nếu đứng chung với LX,
TQ muôn đời chỉ là « anh hai » chứ không là « anh cả ». TQ
tìm mọi cách để hạ LX, dành vị trí lãnh đạo.
-
TQ đã từng chống Hoa Kỳ và Nhật trong một thời gian liên tục hai thập niên, sau
đó thấy không hiệu quả, HK vẫn mạnh lên, Nhật Bản vẫn giàu lên, vì thế phải xoay
chiều. Giả sử TQ vẫn « trụ » vào vị thế đối đầu với HK, chắc chắn TQ mãi
mãi đứng trong hàng ngũ các nước nghèo, kém phát triển, mục tiêu chiến lược sẽ không
bao giờ thực hiện. Vì thế đổi thù thành bạn, TQ nhờ vả vào tài chánh và kỹ
thuật của hai nước HK và Nhật để phát triển kinh tế. Trong quá trình đổi thù
thành bạn, VN là con cờ đầu, đóng vai trò chất xúc tác chính để TQ giao hảo với
HK và cô lập LX, nổi bật là cuộc chiến 1979.
-
TQ lựa chọn đứng vào « thế giới thứ ba ». Quyết định dễ hiểu vì TQ muốn
nắm vai trò lãnh đạo. Nhưng TQ sử dụng các nước trong khối này để củng cố thế
lực của mình. TQ chưa bao giờ chia sẻ những gì của họ cho các nước trong khối.
Khi TQ mở lời muốn giúp các nước trong khối thì TQ không có phương tiện và khả
năng để giúp. Nhưng đến khi có khả năng và phương tiện để giúp thì TQ chưa bao
giờ lên tiếng đề nghị giúp, kể cả lúc TQ đã trở thành siêu cường kinh tế.
-
Năm 1971, TQ đóng vai lãnh đạo khối Thứ Ba, luôn lên tiếng bênh vực cho các
nước, các dân tộc bị áp bức. Nhưng TQ lại dùng quyền phủ quyết (droit de veto)
đầu tiên của mình để chống sự gia nhập LHQ của Bangladesh, một nước thuộc thế
giới Thứ Ba, tách ra từ Pakistan. Làm thế vì TQ muốn lôi kéo đồng minh là
Pakistan về phía mình để tạo thế bao vây Ấn Độ.
-
TQ luôn miệng chống đế quốc thực dân và chủ trương độc lập cho các dân tộc bị
ách thực dân nhưng lại đồng ý cho Goa, cựu thuộc địa Bồ, sát nhập vào Ấn
Độ ; trong khi đó lại chống Timor sát nhập lại vào Indonésie năm 1975. TQ
cũng chiếm Tây Tạng, sát nhập và đồng hóa dân xứ này. Rõ ràng đây là thái độ
của một nước thực dân tồi tệ.
Người
ta cũng thấy những mâu thuẫn rõ nét giũa đường lối chính trị trong nước và
đường lối chính trị ngoại giao của TQ :
-
Vào những năm 1950-1953 đảng CSTQ, trong nước chủ trương đoàn kết chính trị
(front uni) giữa người cộng sản và không cộng sản, nhưng đối ngoại thì từ khuớc
mọi hợp tác với các quốc gia « trung lập » tại Châu Á, kể cả các nước
đã được TQ công nhận.
-
Năm 1956, chủ trương TQ là « chung
sống hòa bình – coexistance pacifique », nhưng đối ngoại thì TQ chống Ấn
Độ do tranh chấp lãnh thổ. Hoặc năm 1969, TQ áp dụng chính sách « cách
mạng văn hóa » cực tả, đối ngoại lại hòa hoãn với HK, một đế quốc cực hữu mà
TQ lớn tiếng lên án và khinh bỉ.
-
Sau khi loại trừ được « tứ môn nhân », nhóm bốn người, chủ trương cực
tả của chế độ ra khỏi bộ máy nhà nước năm 1976-1977, TQ lại bắt đầu giúp đỡ cho
nhóm Khmer đỏ, là những người học trò tin tưởng điên cuồng vào lý thuyết cực
đoan của « nhóm bốn người » vừa bị loại.
TQ
không phân biệt bạn bè trong khối « vô sản các nước đoàn kết lại »,
không phân biệt « tư bản – cộng sản » mà chỉ quan tâm đến quyền
lợi của TQ:
-
TQ chống Liên Xô gay gắt trong những năm của thập niên 60, suýt xảy ra chiến
tranh, là để chống chủ nghĩa xét lại và bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lê hay là ngăn cản
tham vọng của Liên Xô tại Viễn Đông ?
-
Năm 1974 TQ đưa ra lý thuyết « tam thế giới », trong đó lại góp chung
HK và Liên Xô, hai nước đối nghịch ý thức hệ « tư bản- cộng sản », vào
thế giới thứ nhất, là nhóm của bọn « đế quốc bành trướng ».
TQ
cũng đã nhiều lần dùng vũ lực hay tham gia vào các cuộc chiến xảy ra trong thế
kỷ 20, làm đổ máu hàng triệu người Hoa, mục đích các cuộc chiến tranh đó để làm
gì ?
-
TQ chiếm Tây Tạng (1950-1955) là hành vi « giải phóng » cho dân tộc
này khỏi « ách » thần quyền hay là mục tiêu mở mang lãnh thổ
thiên triều ?
-
TQ can thiệp vào Bắc Hàn là do tinh thần « quốc tế vô sản » bảo vệ
thành trì xã hội chủ nghĩa hay là mục đích gây dựng lại ảnh hưởng ngàn năm của thiên
triều ?
-
TQ đánh VN năm 1979 là để bênh vực cho Khmer đỏ hay là dạy cho VN một bài học
về ơn nghĩa và lễ độ đối với thiên triều ?
Ta
thấy chính sách đối ngoại của TQ lúc nào cũng có hai mặt : nói và làm, lý
thuyết và thực hành. Hai mặt này thường xuyên mâu thuẩn nhưng nó thể hiện
rõ hơn bao giờ hết đường lối thực của TQ. Hai mặt là diện và điểm. Diện là cái
cớ, cái hình thức bề ngoài ; điểm là mục tiêu mà TQ muốn đạt đến. Đó là
nhanh chóng đưa TQ trở thành một cường quốc
bậc nhất thế giới và thực hiện mưu đồ bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước
lớn của họ đối với các nước khác.
Cuộc
chiến Việt Trung vì thế, cho dầu mang tên gì, chỉ là giai đoạn cần thiết mà TQ
phải đi qua để khẳng định tư thế nước lớn và dành lại vùng ảnh hưởng từ TQ từ
ngàn năm nay. Vị trí địa lý của VN đã làm cho VN là một đối tượng quan trọng
đối với TQ. TQ cần phải khuất phục và thôn tính VN nếu cần, để có thể đạt được
mục tiêu chiến lược. Trong đoản kỳ,
người ta có thể thấy những toan tính của TQ qua hai hiệp định Genève 1954
và hiệp định Paris 1973 để chi phối VN.
3.
Hiệp định Genève 1954 :
Cuộc
chiến Triều Tiên chấm dứt qua một hiệp ước đình chiến, ngày 27-7-1953, chia tạm
thời Triều Tiên thành hai vùng, ranh giới là vĩ tuyến 38. Đây chỉ là một thỏa
ước tạm thời để các bên xung đột ngưng bắn, chứ không phải là một hiệp ước giải
quyết các vấn đề tranh chấp của hai bên xung đột. Nhưng phương án này được các
bên tham dự vào cuộc chiến VN lựa chọn như là một kiểu mẫu giải quyết cho cả ba
nước Đông Dương.
Trong
cuộc chiến Đông Dương, TQ là nước giúp vũ khí và nhân lực nhiều nhất cho CSVN. Đương nhiên TQ có tiếng nói và trọng lượng
đáng kể lên mọi quyết định của phía CSVN trong hội nghị Genève. Trên tư thế kẻ
cả, TQ đứng ra thương lượng với Pháp về một giải pháp cho VN nhưng thực ra TQ
mặc cả với Pháp để có một giải pháp có lợi trước tiên cho mình.
Lập
trường của VN trong hội nghị Genève : đình chỉ chiến sự trên toàn bán
đảo Đông Dương đi đôi vói một giải pháp chính trị cho vấn đề VN, vấn đề Lào và
vấn đề Kampuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương
Lập
trường của TQ : Ngày 24 tháng 8 năm 1953, thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên
bố : đình chiến ở Triều Tiên có thể dùng làm mẫu mực cho những xung đột
khác.
Mục
tiêu của TQ là dùng VN để thương lượng với Pháp, lấy giải pháp Triều Tiên để
tạo vùng đệm ở Đông Nam Á, ngăn chặn HK vào thay thế Pháp, không muốn chiến sự
mở rộng, bảo đảm an ninh về phía nam của TQ.
Tháng
4 năm 1954, trong một cuộc họp chuẩn bị cho hội nghị Genève, gồm có các đại
diện của TQ, Liên Xô, VN ; đại biểu TQ nói : TQ không thể công khai giúp VN được trong trường hợp cuộc xung đột ở
đây mở rộng.
Vì
là nước giúp vũ khí (nhân sự) cho CSVN, TQ đã vạch rõ cho phía VN thấy đâu là giới
hạn của cuộc chiến. TQ muốn chấm dứt chiến tranh Đông Dương theo lối Triều
Tiên, nghĩa là đình chỉ chiến sự mà không có giải pháp chính trị. Điều này
đương nhiên rất có lợi cho TQ : một nước VN bị chia cắt là một nước VN
yếu, tồn đọng nhiều nguy cơ bất ổn chính trị dễ dàng cho TQ khuynh đảo sau này.
Mục
tiêu của Pháp trong hội nghị Genève là nhằm tìm một giải pháp ngưng bắn cấp
thời để cứu đội quân viễn chinh và nếu có thể giữ ảnh hưởng Pháp tại Đông
Dương. Vì thế Pháp cũng ưu tiên cho một giải pháp tương tự ở Triều Tiên.
Như
thế lập trường của TQ tương đối phù hợp với lập trường của Pháp hơn là lập
trường VN, mặc dầu TQ và VN trên thực tế là một phe.
Quá
trình đàm phán hội nghị Genève về các nước Đông Dương gồm hai thời kỳ, hoàn
toàn do TQ chủ động đàm phán với Pháp.
-
Từ ngày 8 tháng 5 đến 23 tháng 6, TQ và Pháp đàm phán trực tiếp 4 lần, hai bên đạt
thỏa thuận về những nét cơ bản của một hiệp định ngưng bắn tại Đông Dương. Những
nét cơ bản này được nhận diện qua cuộc họp ngày 17 tháng 6 năm 1954 giữa Chu Ân
Lai và trưởng đoàn Pháp Georges Bibault : TQ có thể chấp nhận VN có hai chính
quyền (chính phủ VNDCCH và chính quyền Bảo Đại), công nhận chính phủ vương quốc
Lào và vương quốc Kam Pu Chia, từ bỏ yêu cầu có đại biểu của chính phủ kháng
chiến Lào và chính phủ kháng chiến Kam Pu Chia tham gia hội nghị Genève và đưa
ra vấn đề quân đội nước ngoài, kể cả quân tình nguyện VN phải rút ra khỏi Lào
và Kampuchia. Cuộc họp ngày 23-6-1954 giữa Chu Ân Lai và Mandès France, thủ
tướng mới của Pháp, nội dung của hiệp định thành hình rõ rệt hơn : chia cắt
VN, hai miền VN cùng tồn tại hòa bình, giải quyết vấn đề quân sự trước, tách
rời việc giải quyết 3 vấn đề VN, Lào và Kam Pu Chia ; TQ sẵn sàng nhìn
nhận 3 nước này trong Liên Hiệp Pháp, TQ chỉ yêu cầu không có căn cứ quân sự Mỹ
tại Đông Dương.
Pháp
và TQ qua các đàm phán đã đạt được một giải pháp chung về Đông Dương, đặc biệt
giải pháp này trùng hợp với giải pháp 7 điểm của Anh-Mỹ đưa ra ngày 29 tháng 6
năm 1954 (tức 6 ngày sau cuọc tiếp xúc giữa Chu Ân Lai và Mandès France).
-
Từ ngày 23 tháng 6 đến 20 tháng 7 : Vì đã có đồng thuận với Pháp và các
đại cường, TQ trong thời gian này đóng vai trò thúc đẩy, nếu không nói là ép VN
thuận theo ý đồ của TQ. Lập trường của VN cho đến ngày ngày 10 tháng
7 : giới tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 13 ; tổ chức tổng tuyển
cử tự do trong thời hạn 6 tháng để thống nhất đất nước ; các đại biểu của
chính phủ kháng chiến Lào và Kampuchia được quyền tham dự như các bên đàm
phán
Thái
độ TQ hối thúc VN thấy được qua điện tín Chu Ân Lai ngày 10-7 gởi phái
đoàn VN như sau : « có những điều kiện công bằng và hợp lý để chính phủ
Pháp có thể chấp nhận được, để đi đến hiệp định trong 10 ngày, điều kiện đưa ra
nên đơn giản, rõ ràng để dễ đi đến hiệp thương, không nên làm phức tạp lôi thôi
để tránh thảo luận mất thì giờ, rườm rà, kéo dài đàm phán để cho Mỹ phá hoại ».
Một điện tín trước đó, ngày 30-5, cũng của của Chu Ân Lai : « Đánh
giá phương án (tức phương án lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến) khó có thể thỏa
thuận, nếu không được thì sẽ lấy Hải Phòng làm cửa bể tự do, ở gần đấy cho Pháp
đóng một số quân nhất định, nếu không được nữa thì đem đường số 5 và Hà Nội,
Hải Phòng làm khu công quản và phi quân sự ».
Điều
này cho thấy TQ đe dọa cắt Hà Nội và Hải Phòng biến thành vùng « trái
độn » và cho Pháp trở lại, nếu VN không nhượng bộ.
VN
cuối cùng chấp nhận giải pháp : các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ
bản của nhân dân VN, Lào và Kampuchia, ngừng bắn đồng thời ở VN và trên chiến
trường Đông Dương, Pháp rút quân, vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời
chia VN làm hai miền, tiến tới tổng tuyển cử tự do trong cả nước sau hai năm để thống nhứt nước
nhà.
Về
hội nghị Genève, CSVN sau này phê bình TQ như sau : giải pháp mà đoàn
đại biểu TQ thỏa thuận với đoàn đại biểu Pháp ở Genève không phản ánh so sánh
lực lượng trên chiến trường, cũng không đám ứng đầy đủ những yêu cầu chính trị
của giải pháp do đoàn đại biểu VN đề ra.
Và
kết án TQ phản bội lại cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân VN cũng như của
nhân dân Lào và nhân dân Kampuchia.
Cuối
cùng CSVN ý thức : TQ đã hy sinh lợi ích của ba nước Đông Dương để bảo
đảm an ninh của họ ở phía nam.
4. Hiệp định Paris 1973.
Sau hiệp định Genève 1954, cuộc
bầu cử thống nhất hai miền Nam
và Bắc VN dự trù 2 năm sau đã không diễn ra như đã qui định. Hai bên miền Nam và miền Bắc
VN qui lỗi cho nhau là phá hoại, không chấp nhận tổ chức bầu cử.
Miền Bắc, sau một vài đợt cải
cách ruộng đất thất nhân tâm đã gây bất mãn sâu sắc trong xã hội, một cuộc tổng
tuyển cử năm 1956 chưa chắc ông Hồ sẽ thắng. Năm 1954, hàng triệu người dân
miền Bắc đã di cư vào Nam phần nào cho thấy dân miền Bắc không thích các chủ
trương XHCN do ông Hồ áp dụng, đã ảnh hưởng trực tiếp, thậm chí làm đảo lộn đời
sống của người dân VN. Miền Bắc vì thế sẽ thất bại nếu cuộc bầu cử diễn ra.
Yếu tố quan trọng khác, miền Bắc
đất ruộng chật hẹp, nghèo nàn; công kỹ nghệ, hạ tầng cơ sở rất kém, có thể nói
là chưa có gì, tóm lại, miền Bắc là một vùng rất nghèo. Trong khi miền Nam ruộng đất phì
nhiêu, các hạ tầng có sở do Pháp để lại đều tương đối tốt, nếu không nói là khá,
vượt trội so với nhiều nước chung quanh. Miền Nam có triển vọng cất cánh nhanh
chóng so với miền Bắc.
Đây là những lý do khiến ông Hồ
không muốn tổ chức “tổng tuyển cử” năm 1956 và quyết định “thống nhất đất nước”
bằng vũ lực và bằng mọi giá, càng sớm càng tốt.
Trong khi mục tiêu của TQ muốn là
muốn duy trì tình trạng VN như qui định của hiệp định Genève. TQ thuyết phục
lãnh đạo miền Bắc chủ trương « trường kỳ mai phục ».
Mao nói với lãnh đạo VN : « Tình
trạng nước VN bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà
cần phải trường kỳ. Nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm »(tr 37).
Tháng 7 năm 1955 Tổng Bí Thư đảng
CSTQ là Đặng Tiểu Bình nói : « Dùng lực lượng vũ trang để thống
nhất nước nhà sẽ có hai khả năng : một khả năng là thắng và một khả năng
nữa là mất miền bắc ».
Tháng 7 năm 1957 Mao Trạnh Đông
nói : « Vấn đề là phải giữ biên giới hiện có, phải giữ vĩ
tuyến 17… Thời
gian có lẽ dài đấy. Tôi mong thời gian dài thì sẽ tốt ».
Như
thế rõ rệt : TQ muốn VN giữ nguyên trạng theo hiệp định Genève, chia đôi
đất nước ở vĩ tuyến 17 càng lâu càng tốt.
Nhưng,
vì lý do vừa nói trên, thời gian càng kéo dài thì kinh tế miền Nam càng vượt xa
miền Bắc vì thiên nhiên ưu đãi, quân đội do đó mạnh hơn, việc « thống
nhứt » đất nước bằng vũ lực sẽ không bao giờ thành công mà có thể mất cả
miền Bắc, như lời của Đặng Tiểu Bình. Trường hợp thống nhất bằng đường lối tổng
tuyển cử hòa bình thì miền Bắc không có xác suất nào để thắng.
Lãnh
đạo CSVN đã phải chọn giải pháp vũ lực, đánh miềm Nam càng sớm càng tốt, để hy
vọng thắng và tồn tại.
Bắc
Kinh không thuyết phục được CSVN « trường kỳ mai phục ». Với nhân sự
đã cài lại sau 1954, CSVN mở cùng lúc nhiều mặt trận (chính trị, quân sự) đánh
phá miền Nam. TQ, vì biết không thể cản, phải nương theo cái gọi là « tinh
thần quốc tế vô sản », giúp đỡ vũ khí, lương thực và nhân sự để có khả
năng gây ảnh hưởng lên lãnh đạo CSVN.
Tuy
nhiên, cuộc chiến càng kéo dài, vũ khí đạn dược lạc hậu do TQ viện trợ trở thành
không tương xứng với vũ khí tối tân của quân đội miền Nam và quân đội HK. Vì
thế lãnh đạo CSVN ngày càng hướng về phía Liên Xô. Từ 1965 đến 1969 viện trợ
quân sự của LX cho miền Bắc lên tới khoảng 4 hoặc 5 tỉ đô la, trong khi viện
trợ của TQ chỉ còn 10% con số viện trợ của LX. Miền Bắc tách dần khỏi quĩ đạo
TQ, trở thành vệ tinh của LX, lệ thuộc từ tư tưởng cho đến hành động. Liên minh
Việt-Xô làm TQ lo ngại, không khác đe dọa áp lực quân sự của HK ở phía Nam. Trong
khi đó thì Lào và Kampuchia trung lập, TQ tưởng chừng không còn điểm nắm tại
Đông Dương.
Từ
tháng 5 năm 1968 hội nghị Paris được mở ; TQ cho đây là « một sự gian
trá về đàm phán về hòa bình ». Trong thâm tâm TQ lo ngại Washington và
Moscou ép Hà Nội về một giải pháp mà TQ đứng ngoài.
TQ
thường xuyên tố cáo « bọn xét lại » LX « âm mưu » liên kết với
HK để « ly gián » tình hữu nghị Trung-Việt và phá hoại khối liên kết chống
Mỹ của hai dân tộc Việt-Hoa. TQ tố cáo sự trợ giúp của LX cho VN là giả tạo, bề
ngoài, mục đích của nó là làm cho hai nước Trung-Việt chống đối lẫn nhau.
TQ
nói với lãnh đạo CSVN rằng VN đàm phán với HK là « nghe theo lời
LX ». TQ cho rằng VN dùng viện trợ
của TQ đánh Mỹ để nhằm mục tiêu đàm phán với Mỹ thì viện trợ của TQ không có ý
nghĩa.
Ngày
17 tháng 10 năm 1968, Trần Nghị, bộ trưởng bộ ngoại giao, đến gặp đại diện VN
đe dọa chấm dứt ngoại giao nếu VN « chấp nhận 4 bên đàm phán ». TQ
cho rằng như thế là giúp Johnson thắng cử, làm kéo dài sự « đô hộ của
dân miền Nam dưới gót giầy đế quốc Mỹ ! ».
Năm
1969 TQ hỏi CSVN : Thế VN muốn đánh hay hòa để TQ tính việc viện
trợ ? Viện trợ của TQ năm 1969 sụt 20% co với năm 1968.
Đứng
trước đe dọa đàm phán của ba nước Việt-Xô-Mỹ có thể gây bất lợi, TQ thúc đẩy Hà
Nội lên thang chiến tranh nhằm phá hoại. TQ sẽ giúp VN đánh Mỹ đến người VN
cuối cùng ! Mục tiêu của TQ là không cho HK thực hiện kế hoạch « Việt
Nam hóa chiến tranh », quyết giữ HK sa lầy tại VN, nếu HK không quan tâm
đến quyền lợi của Bắc Kinh.
Từ
năm 1970 vấn đề VN lại gắn thên vấn đề Kampuchia. Ông hoàng Sihanouk bị tướng
Lon Nol đảo chánh, phải tị nạn tại Bắc Kinh. Từ đó TQ đầu tư vào con bài
Sihanouk. (Sau đó là Khmer đỏ, mặc dầu Đặng Tiểu Bình rất ghét Pol Pot vì lý do
cá nhân, nhưng vì nhu cầu phải cầm chân VN nên TQ phải giúp bọn phạm tội ác
diệt chủng).
Do
nhu cầu chiến lược, TQ trở nên hòa hoãn với HK năm 1971-1972. Phía HK cũng ý
thực được vai trò của TQ, nhận thấy không thể thực hiện kế hoạch « Việt
Nam hóa chiến tranh » nếu không có sự đồng thuận của TQ. Vì thế con
đường « Việt Nam hóa chiến tranh » bắt buộc phải đi qua Bắc Kinh.
Tuy
nhiên bề mặt đối với VN thì TQ luôn biểu lộ sự ủng hộ tích cực CSVN và chống
đối HK mạnh mẽ. TQ vẫn muốn lôi kéo VN trở lại nhưng cũng lo ngại để lộ bộ mặt
thân HK, VN sẽ ngã hẵn về phía Moscou.
TQ
giả vờ bày tỏ lập trường cứng rắn ủng hộ VN trong hai dịp : tháng 9 năm
1971 lúc thủ tướng Lý Tiên Niệm sang Hà Nội và tháng 11 năm 1971 lúc Phạm Văn
Đồng tại Bắc Kinh. Tháng 3 năm 1972 Chu Ân Lai sang Hà Nội xác định lại lời hứa
của TQ sẽ giúp cho VN đến khi chiến thắng.
Qua
các cuộc đi đêm và ngoại giao « bóng bàn » với Washington, Bắc Kinh
đã thành công lập lại cầu nối với HK, giúp HK rút khỏi VN bình an. Đổi lại, HK nhìn
nhận Bắc Kinh là đại diện chính thức của TQ tại LHQ, thay vì nhà nước Quốc Dân
đảng ở Đài Bắc, đồng thời hứa giúp TQ phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật.
Năm
1979, sau cuộc chiến Việt-Trung, CSVN tố cáo TQ vào khoảng thời gian này đã sử
dụng VN như là con bài để thuơng lượng với HK về vấn đề Đài Loan. Nhưng thực ra
phía TQ có giải thích chủ trương của TQ là giải quyết VN trước, Đài Loan sau.
Điều này cho thấy đúng.
Hiệp
định Paris 27-1-1973 đưa VN trở lại tình trạng năm 1954 : trong nhất thời
hiện hữu hai nước VN và việc thống nhất sẽ bằng một phương pháp hòa bình mà
điều này sẽ chỉ thực hiện trong một thời gian rất xa. HK không mong muốn gì hơn
là rút chân một cách an toàn ra khỏi miền Nam. Riêng Lào và Kampuchia trở lại giải
pháp theo hiệp định Genève 1954 và 1962, xác định lại sự trung lập của hai nước
này. Phía TQ đón nhận hiệp định với sự hài lòng, vì TQ được trở lại sân khấu với
vai trò quyết định số phận ba nước Đông Dương qua thỏa ước cuối cùng ký ngày 2
tháng 3 năm 1973. TQ cũng đã thiết lập trước đó một mối giao hảo khá thân mật
với MTGPMN, sẽ là một thành phần trong chính phủ mới tại miền Nam (nếu hiệp
định Paris được tôn trọng).
Quan
hệ Bắc Kinh và Hà Nội chỉ bắt đầu tồi tệ từ khi hiệp định Paris không được các
bên tôn trọng.
Phía
Hà Nội không có lý do tôn trọng vì hiệp định không giải quyết được quyết tâm
« thống nhất đất nước ». Phía Sài Gòn cũng không có lý do tôn trọng
vì hiệp ước dự trù một chính phủ liên hiệp ba thành phần, trong đó Sài Gòn một
thành phần và MTGPMN là một thành phần khác. Trong khi đó, cũng như thời gian
sau hiệp định Genève 1954, TQ khuyên nhủ Hà Nội kiên nhẫn chờ đợi. Tháng 6 năm
1973 Mao Trạch Đông nói với Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng : Ở miền Nam cần
ngưng chiến nửa năm, một năm, một năm rưởi, hai năm càng tốt… Cách mạng miền
Nam nên chia làm hai bước… ». Chu
Ân Lai thì nói : « trong một thời gian chưa thể dứt khoát là 5 năm
hay 10 năm, VN và Đông Dương nghỉ ngơi được thì tốt… ». TQ hứa hẹn sẽ viện
trợ 5 năm với mức kim ngạch như năm 1973.
Nhưng
TQ không đủ khả năng tạo sức ép lên Hà Nội và các bên để yêu cầu tôn trọng hiệp
định Paris. Viện trợ quân sự của TQ cho VN bị cắt (viện trợ kinh tế thì vẫn
còn) nhưng không ngăn được chiến cuộc leo thang mà phần thắng ngày càng nghiêng
về phía miền Bắc, do sự viện trợ quân sự ào ạt của LX, trong lúc miền Nam đã
không còn chỗ dựa.
HK
đã dứt khoát với miền Nam, mặc dầu HK được sự khuyến khích của TQ trở lại giúp
quân đội Sài Gòn. TQ không muốn cho Hà Nội thắng, nhưng sự ủng hộ của quần
chúng HK cho cuộc chiến đã không còn, số phận miền Nam đã định.
Sau
chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, CSVN tuyên bố năm 1979 : Việc giải
phóng và thống nhứt miền Nam không chỉ là một thất bại của đế quốc Mỹ mà còn là
một thất bại lớn của những người cầm quyền ở Bắc Kinh trong việc thực hiện
chiến lược toàn cầu và mưu đồ bành trướng bá quyền của họ….
Học
giả François Joyaux, tác giả cuốn « La Tentation Impériale – politique
extérieure de la Chine depuis 1949 », cho rằng cuộc chiến Việt Trung 1979
bắt nguồn từ việc Hà Nội không tôn trọng hiệp định Paris. Việc này xét ra không
sai : nó là nguyên nhân xa đưa đến sự khủng hoảng trầm trọng giữa hai nước
Việt-Trung. Nó cũng là nguyên nhân khiến cho TQ quyết định chiếm trọn quần đảo
Hoàng Sa của VN vào tháng giêng năm 1974.
5/
Nguyên nhân cuộc chiến 1979
5.1
Vấn đề người Hoa hay « nạn kiều »:
Vào
năm 1975 người Hoa ở miền Nam Việt Nam khoảng 1.200.000 người, phần lớn ở Chợ
Lớn (800.000), nắm phần lớn huyết mạch kinh tế miền Nam. Con số này cộng thêm
200.000 là số dân Hoa sống tại Kampuchia, sau 1975 chạy sang VN tị nạn. Vấn đề
quốc tịch người Hoa được Bắc Kinh và chính phủ VNDCCH đặt ra sau khi ký kết
hiệp định Genève. Việc thuơng thuyết gặp khó khăn, nhưng cuối cùng kết quả là
người Hoa tại VN (miền Bắc) được có những quyền lợi tương tự như người bản xứ
nhưng những người này phải lần hồi lấy quốc tịch Việt.
Ở
miền Nam, thời Ngô Đình Diệm đã có những chính sách hạn chế sinh hoạt kinh tế
của ngoại kiều. Người nước ngoài không được làm một số ngành nghề, việc cấp
Visa cũng khó khăn, hạn chế. Điều này cũng áp dụng cho Hoa Kiều, vì thế lớp
người này hầu hết nhập tịch Việt Nam.
Sau
1975, CSVN áp dụng chính sách « đánh tư sản mại bản », một số tài
phiệt người Việt gốc Hoa tại miền Nam bị bắt cải tạo hay đày đi kinh tế mới. Các
bang, hội đồng hương, tương tế của người Hoa bị cấm hoạt động. Hai đợt đổi tiền
(1975, 1978), bề mặt là kiểm soát lượng tiền tệ, nhưng mục tiêu lột sạch của
cải dân miền Nam, trong đó người Việt gốc Hoa là nạn nhân chính. Song song đó
là chính sách « cải tạo công thuơng nghiệp », toàn bộ tài sản của dân
miền Nam, trong đó có người việt gốc Hoa, ruộng đất, vườn tược hoàn toàn bị
tước đoạt.
Năm
1976, nhân việc tổ chức bầu cử toàn quốc, những người Việt gốc Hoa ở miền Nam
bị bắt buộc khai quốc tịch, việc này quan hệ đến đại đa số dân Hoa sống tại đây
vì từ thập niên 50 họ đã có quốc tịch Việt Nam, một phần ít nhiều do chính sách
ép buộc của VNCH đã nói trên. Như thế người Hoa bị hai mất mát lớn : vừa
mất quốc tịch vừa mất tài sản. Tương tự như tại Indonésia năm 1965, họ phải tị
nạn, một số về lại mẫu quốc, một số khác sang sinh sống các nước Đông Nam Á.
Trong
khi đó chính phủ MTGPMN đã có cam kết với Bắc Kinh về tình trạng của người Hoa
sau chiến tranh. Ngày 24 tháng 5 năm 1965, mặc dầu còn đang chiến tranh, MTGPMN
công bố một lá thư nhằm gởi đến Hoa kiều đang ở miền Nam, nội dung cho biết
những người này có quyền tự do lựa chọn quốc tịch của mình. Năm 1968 việc này
được CP MTGPMN nhắc lại và Bắc Kinh tiếp nhận sự việc này. Như thế đây là một
lời cam kết giữa hai chính phủ. Nhưng MTGPMN đã bị âm thầm « xóa
sổ », không kèn không trống, một số nhân vật của tổ chức này vượt biên ra
sống ở hải ngoại, một số rất nhỏ được CSVN sử dụng, nhưng số rất lớn khác vẫn
còn ngậm đắng nuốt cay cho đến ngày hôm
nay.
Người
Việt gốc Hoa từ năm 1977 bắt đầu chạy trốn VN, đỉnh cao là tháng 3 năm
1978 sau khi nhà nước CSVN áp dụng chính
sách cải tạo công thuơng nghiệp, quốc hữu hóa toàn bộ, việc này gây một làn
sóng « boat people », không riêng gì người Việt gốc Hoa mà người Việt
chính gốc cũng bỏ nước ra đi. Thảm cảnh thuyền nhân kéo dài nhiều năm, con số
lên đến hàng triệu người, tình trạng chết chóc do bão tố, nạn nhân hải tặc
v.v.. làm chấn động cả thế giới. Phong
trào vượt biên kéo dài cho đến thập niên 90.
Ngày
12 tháng 5 năm 1978, Bắc Kinh quyết định ngưng một phần viện trợ cho VN để giúp
cho số người Hoa hồi hương về lục địa. Theo Bắc Kinh, con số này lên tới 40.000
người. Cuối tháng 5, Bắc Kinh đề nghị gởi thuyền bè sang VN để cho những người
Hoa, những người muốn hồi hương. Hà Nội chính thức hóa, ngày 20 tháng 6, việc
hồi hương người Hoa. Cùng lúc, Bắc Kinh tuyên bố bãi bỏ thêm một phần viện trợ cho
VN để dành cho việc tái định cư những người hồi hương. Cũng trong tháng 6 TQ
đóng cửa các tòa lãnh sự của VN tại Quảng Châu, Côn Minh và Nam Ninh. Ngày
3-7-1978 TQ tuyên bố cắt hết viện trợ và rút toàn bộ chuyên gia đang giúp VN về
nước.
Theo
hồi ký công bố gần đây, (nguồn BBC 17-2-2006) của Zhou Deli (Châu Đức Lập),
tham mưu trưởng của Quân khu Quảng Châu,
vào tháng Chín 1978, có nói về
một cuộc họp tại văn phòng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Trung Quốc,
nội dung tìm phương pháp "giải
quyết vấn đề lãnh thổ bị quân Việt Nam chiếm đóng".
Ông
này viết rằng :
« Sự tập trung ban đầu là nhắm vào cuộc
xung đột biên giới, và đề xuất đầu tiên muốn có một cuộc tấn công
nhỏ vào một trung đoàn Việt Nam ở Trùng Khánh, giáp ranh Quảng Tây.
Sau khi nhận được tin tình báo
cho biết Việt Nam sẽ tấn công Campuchia, đa số người dự họp cho rằng
một cuộc tấn công cần có tác động lớn đến Hà Nội và tình hình
Đông Nam Á.
Họ đề nghị tấn công vào một đơn
vị quân chính quy Việt Nam ở một khu vực địa lý rộng hơn.
Cuộc họp kết thúc mà không đưa
ra quyết định nào, nhưng nó tạo tiền đề cho kế hoạch chiến tranh sau
đó »
Vấn
đề « lãnh thổ » của TQ bị VN chiếm đóng cần phải xét lại khi các dữ
kiện liên quan được các bên công bố. Cuốn « Bị vong lục » của VN công
bố năm 1979, tố cáo TQ xâm chiếm đất của VN, (nếu so sánh với hồ sơ biên giới
1885-1897) cho thấy có một số điểm sai. Lãnh thổ (trên vùng biên giới) mà Châu
Đức Lập đề cập là « lãnh thổ » nào ? Tuy nhiên, lời nói của viên
chức này rõ ràng cũng ám chỉ các đảo thuộc Trường Sa của VN.
Nhưng
có lẽ vấn đề « nạn kiều » là một lý do để có buổi họp quân sự từ
tháng 9 năm 1978.
Điều
này có nghĩa là quyết định đánh Việt Nam đã có trước khi Việt Nam mở cuộc chiến
toàn diện với Kampuchia vào cuối năm 1978
5.2
Vấn đề Kampuchia :
Quan
hệ Việt-Trung sau vấn đề « nạn kiều » 1978 đã trở nên trầm trọng, có
thể gọi là hết thuốc chữa. Sự việc bắt đầu từ khi hiệp định Paris 1973 không
được tôn trọng, đến 30 tháng 4 năm 1975 giao hảo Việt-Trung không còn tình hữu
nghị, mà chuyển sang đối đầu, vì VN đã
lệ thuộc hẵn vào LX. Vì cùng lo ngại sự hiện diện của LX tại Đông Nam Á, TQ đã
thành công ký kết ngoại giao với các nước có truyền thống chống TQ tại Đông Nam
Á như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương v.v…
Mực
độ căng thẳng Việt-Trung thấy được qua việc CSVN tố cáo TQ gây chiến trên biên
giới Việt-Trung : năm 1975 là 234 vụ, năm 1978 là 2175 vụ, tăng 9 lần.
Việc gia tăng hiềm khích là phản ảnh của quan hệ căng thẳng Việt-Trung trong
thời gian đó.
Về
quan hệ giữa TQ và Kampuchia, CSVN tố cáo Pol Pot và Ieng Sary, sau 1973, theo
lệnh của Bắc Kinh thi hành chính sách hai mặt đối với VN : vừa dựa vào VN, vừa chống VN.
Theo
hiệp định ký kết với HK, TQ không được viện trợ quân sự trực tiếp cho ba nước
Đông Dương. Nhưng bề trong TQ viện trợ cho nhóm Pol Pot – Ieng Sary qua ngả VN ;
VN viện trợ cho nhóm này, sau đó TQ sẽ hoàn trả lại cho VN. Như thế hai mặt TQ
không thất hứa với HK mà vẫn giúp vũ khí cho phe kháng chiến Kampuchia.
Ngày
17 tháng 4 năm 1975 chính quyền Lon Nol bị sụp đổ, phe Pol Pot và Ieng Sary
lãnh đạo đảng cộng sản Kampuchia lên nắm quyền ở Nam Vang. Đây là những người
đệ tử cuồng tín của chủ nghĩa Mao-ít. Ông Hoàng Sihanouk, lá bài chủ của TQ, bị
lu mờ phải ra sau hậu trường chờ thời. Đặng Tiểu Bình cho dầu không ưa bọn Pol
Pot, nhưng cũng sử dụng vì bọn này lại tỏ ra rất hữu hiệu để chống phá VN.
Theo
tài liệu CSVN, TQ viện trợ cho Kampuchia tiền bạc, vũ khí cùng hàng vạn
chuyên gia cố vấn để huấn luyện và vũ
trang hàng chục sư đoàn bộ binh, thiết giáp, pháo binh, xây dựng và mở rộng
nhiều căn cứ hải quân, không quân và hệ thống nhà kho hậu cần, giúp Pol Pot chuẩn
bị chiến tranh với VN.
Thực
ra hiềm khích giữa hai dân tộc Việt và Miên đã có từ lâu đời, nguyên nhân là
các vấn đề tranh chấp lãnh thổ và biên giới. Phía bên Kampuchia không chấp nhận
nguyên tắc « uti possidetis » của quốc tế công pháp, có dịp là lên
tiếng chống VNCH, đòi hỏi phi lý các vùng đất đã thuộc về VN do các quyết định
hành chánh hay các hậu quả pháp lý của các hiệp ước về biên giới ký kết dưới
thời Pháp. Họ phủ nhận đường biên giới qui ước Pháp thiết lập trong quá khứ.
Thực ra VN cũng là nạn nhân của di sản nhà nước thực dân : công ước phân
định biên giới giữa nhà Thanh (TQ) và Pháp năm 1887 đã làm cho miền Bắc VN mất
nhiều vùng đất quan trọng về kinh tế và chiến lược ; nhưng VN đã không có
thể hủy bỏ các hiệp ước « bất bình đẳng » này mà phải tôn trọng nó,
vì nó vẫn còn hiệu lực pháp lý cho đến ngày hôm nay (theo tinh thần công ước
Vienne 1969).
Trong
khi, do nhu cầu cầu mở đường trên đất Kampuchia (đường mòn Hồ Chí Minh) để tiếp
viện cho cuộc chiến, ngày 8-6-1967 nhà nước VNDCCH có ra tuyên bố « nhìn
nhận đường biên giới hiện trạng » của Kampuchia. Phía Kampuchia xem tuyên
bố này như là một hứa hẹn (ngoài các hứa hẹn khác của MTGPMN với Sihanouk) VN trả
lại đất, trong đó bao gồm các đảo trong vịnh Thái Lan (gồm Phú Quốc, Thổ Chu…)
và một số vùng đất khác. Sau khi thống nhứt lãnh thổ, CSVN « quên »
các hứa hẹn này. Đó là nguyên nhân khiến Khmer đỏ đánh VN, mở đầu cho việc VN
chiếm Kampuchia, sau đó là cuộc chiến Việt-Trung 17-2-1979.
Về
phía HK, quan hệ Washington và Bắc Kinh bình thường hóa đầu năm dương lịch
1979, sau khi VN xua quân vào Kampuchia vài ngày. Trước đó hai bên có thông cáo
chung về quan điểm « chống bành trướng » ngày 15 tháng 12-1978, điều
này ám chỉ liên minh VN và LX và các manh động của VN tại Kampuchia và LX tại
Afghanistan. Tháng giêng 1979 họ Đặng thăm viếng HK, ký kết một số thỏa hiệp với
HK về văn hóa, kinh tế và kỹ thuật đồng thời trình bày một kịch bản chung với
HK để chống LX, nhưng thực chất bề trong là thông báo cho HK kế hoạch
« dạy cho VN một bài học ».
Trước
đó, tháng 11, họ Đặng đã đi các nước Thái Lan, Mã Lai, Singapore… có tuyên bố
các nơi đây rằng TQ sẽ dùng vũ lực nếu VN tấn công Kampuchia. Như thế, TQ đã lo
« bao sân » trước khi đánh VN 17 tháng 2 năm 1979. Tất cả các nước
đều không phản đối việc dọa đánh VN của Đặng Tiểu Bình. Điều này dễ hiểu, sau
30-4-1975, VN bị cô lập hoàn toàn ở Đông Nam Á. Nguyên nhân là do thái độ hung
hăng hiếu chiến của VN, sau khi ký kết hiệp ước an ninh với LX cuối năm 1978, sau
khi tham gia khối COMECON, đòi đánh sang đến cả Thái Lan. Khối ASEAN vì thế hợp
tác với TQ để chống sự bành trướng của LX, qua mũi nhọn xung kích là VN.
Lý
ra cuộc chiến đánh bọn đồ tể diệt chủng Pol Pot – Ieng Sary của VN là một cuộc
chiến có chính nghĩa, nhưng vì tham vọng quá lớn của lãnh đạo CSVN, muốn biến
Kampuchia thành một chư hầu, dự định đóng quân lâu dài, khiến thế giới lên án
buộc VN phải rút quân về.
Nhưng
đó cũng là kế hoạch của TQ, làm cho VN sa lầy tại Kampuchia, làm VN chẩy máu
đến chết.
Đối
với LX, từ năm 1978, khi Đặng Tiểu Bình trở lại chính trường, việc hòa hoãn có
khuynh hướng tích cực. LX do lo ngại trục Bắc Kinh – Tokyo – Washington thiết
lập từ năm 1978 nên cũng tỏ ra niềm nở hơn với Bắc Kinh. VN gia nhập khối
Comecon ngày 29 tháng 6, ký hiệp ước hợp tác và hữu nghị với LX ngày 3 tháng 11
năm 1978. Việc VN ký kết với LX hiệp ước hợp tác và hữu nghị đối với TQ có ý
nghĩa chấp dứt mọi quan hệ gữa VN và TQ.
Ngày
25 tháng 12 năm 1978 quân VN tiến vào Kampuchia, đến ngày 11 tháng 1 năm 1979
đánh quân Pol Pot ra khỏi Nam Vang và các tỉnh lớn, Heng Samring tuyên bố nền
cộng hòa nhân dân Kampuchia được thiết lập.
Việc
quân VN nhanh chóng quét sạch quân Pol Pot ra khỏi Nam Vang và các tỉnh lớn ở
Kampuchia đã làm cho phía TQ bị bất ngờ.
Ngày
17-2 TQ xua quân sang đánh VN. Kế hoạch đánh VN hiện nay có nhiều tài liệu,
Việt Nam và TQ, đã được công bố. Tài liệu Châu Đức Lập (nguồn BBC ghi trên) kể
lại như sau :
« Ngày 7-12, Ủy ban quân ủy
trung ương có cuộc họp và quyết định mở một cuộc chiến hạn chế ở
vùng biên giới phía nam của Trung Quốc… Chỉ thị nói rằng cuộc chiến
sẽ tiến hành một cách hạn chế, trong phạm vi 50 cây số từ biên giới
và kéo dài hai tuần… Đặng Tiểu Bình bổ nhiệm Xu Shiyou lãnh đạo quân
từ Quảng Tây, Yang Dezhi lãnh đạo quân từ Vân Nam…. Cuộc xâm lấn phải
nhanh, và toàn bộ quân phải rút về sau khi hoàn tất mục tiêu chiến
thuật.
Ngày 23-1, Bộ Tổng tham mưu Trung
Quốc họp và quyết định quân đội phải sẵn sàng hành động trước ngày
15-2. Hai ngày sau khi ông Đặng trở về sau chuyến thăm Mỹ và Nhật, hôm
11-2-1979, ông ra quyết định sẽ tấn công Việt Nam vào ngày 17-2. »
Mặc
dầu VN đã có ký kết hiệp ước hỗ tương với LX, nhưng LX đã không có phản ứng
đúng với mức độ cần có như cam kết. LX cũng đã lập lại việc này lúc TQ chiếm
các đảo TS của VN năm 1988.
6. Bài học nào qua cuộc
chiến này ?
Cuộc
chiến này đã là một bài học sâu sắc cho cả hai bên lâm chiến.
Cuộc
chiến không hề đem một lợi lộc nào cho VN, ngoài việc cướp đi sinh mạng hàng
chục ngàn (có thể tới 50.000) thanh niên, hàng chục ngàn dân lành vô tội và tạo
ra biết bao thuơng binh, cô nhi, quả
phụ. Cuộc chiến cũng tàn phá các tỉnh Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn…
khi quân TQ rút đi, các tỉnh này trở thành bình địa.
Cuộc
chiến đáng lẽ đã tránh được, nếu VN không phạm sai lầm và hiểu chiến lược của
TQ.
Sai
lầm trọng đại nhứt của CSVN là tỏ thái độ vô ơn trắng trợn đối với TQ. Có vấn
đề Kampuchia hay không, TQ cũng sẽ cho VN « một bài học », không vào
năm 1979 thì sẽ vào lúc khác. Sự trở mặt của VN năm 1978, gia nhập COMECON và
ký hiệp ước an ninh với LX, không chỉ đe dọa TQ mà còn trực tiếp đe dọa toàn
vùng Đông Nam Á. Các nước trong vùng lo ngại hệ quả Domino. Việc này khiến các
nước trong vùng thân thiện và thiết lập ngoại giao với TQ. Sự trở mặt của VN
cũng đã bắt cầu cho TQ và Hoa Kỳ thân thiện với nhau, tất cả nhằm mục tiêu cô
lập Liên Xô (và VN).
Trong
khi, sau 1975, giả sử VN « khai thông ngoại giao » với TQ bằng cách
chấp nhận ảnh hưởng của TQ qua thực thể chính trị MTGPMN với một mực độ nào đó,
(trong một thời gian chấp nhận được), chắc chắn sẽ không có cuộc chiến 1979.
Đối
với dân Khmer, CSVN đã có những hứa hẹn không thể giữ lời : VN không thể
trả lại cho nước này các vùng đất đã trở thành của VN (theo các nguyên tắc của
quốc tế công pháp : Công ước Vienne 1969 và nguyên tắc « uti
possidetis »).
Lãnh
đạo CSVN đã có những lựa chọn tệ nhất, lấy giải pháp xấu nhất, điên rồ nhất, có
hại nhất cho đất nước và dân tộc VN.
Sau
1975, nếu VN không mù quáng áp dụng các chính sách kinh tế XHCN, không có các
chính sách học tập cải tạo, không trả thù người dân miền Nam, không đánh người
Việt gốc Hoa v.v… thì vị trí của VN hôm nay đã sánh ngang, ít nhất, với Đại Hàn
rồi !
Hơn
ba thập niên dư âm cuộc chiến vẫn còn, linh hồn hàng chục ngàn chiến sĩ hi sinh
bảo vệ đất nước vẫn còn đang vất vưỡng, hương tàn, khói lạnh.
Lãnh
đạo VN đã cố gắng che đậy, không cho làm lễ tưởng niệm, vì họ muốn làm hài lòng
TQ. Lãnh đạo CSVN đang chạy trốn quá khứ, đang trốn cả sự thật, không dám nhận
lãnh trách nhiệm về đổ vỡ của mình gây ra. Lãnh đạo CSVN hiện đang trong gọng
kềm của TQ. Hôm nay họ mới thấy thấm thía cái vị thất bại chua cay của cuộc
chiến 1979 mà họ tuyên truyền là người chiến thắng ! VN hơn 3 thập niên sau
vẫn không khá hơn VN 3 thập niên trước, vẫn là một nước nghèo, vẫn ngữa tay xin
trợ giúp từ các tổ chức thế giới ; mâu thuẫn dân tộc vẫn sâu sắc, không
giải tỏa vì chính sách hòa giải dân tộc vẫn chưa thực hiện.
Bài
học cuộc chiến 1979 lãnh đạo VN chỉ hiểu lờ mờ !
Về
phía TQ, bài học cuộc chiến 1979 có thể xem là cơn sốt vỡ da để lớn. TQ đã
thành công phát triển thế và lực hiện nay là do từ những thất bại chiến lược
của CSVN. TQ hiện nay là người khổng lồ so với TQ năm 1979. TQ đã phát triển
vượt mức về mọi mặt, nhất là quân sự. TQ đã hiểu rất rõ cuộc chiến 1979, vì tất
cả đều rạch ròi trong chiến lược của TQ.
Trương
Nhân Tuấn
Sách
tham khảo : La Tentation Impériale – politique extérieure de la Chine
depuis 1949, tác giả François Joyaux, Paris 1994, ISBN 2-11-081331-8 ; Sự
Thật Về Quan Hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, tháng 10
năm 1979.
Tài
liệu : Nguồn BBC.