Quyền lực trong xã hội con người,
từ cổ đại đến nay, đều đặt nền tảng trên sự « chính danh - légitime ».
Không có chính danh thì nói không ai nghe.
Quyền lực (power – pouvoir) ở đây
được hiểu như là « quyền lực » của « quyền lực chính trị »,
tức là « thẩm quyền » áp đặt những nguyên tắc luật lệ mà mọi người trong
xã hội (thuộc một vùng lãnh thổ nhứt định) phải tuân thủ.
Sự « chính danh » trong
chính trị có thể có thể được hiểu như là điều « hợp pháp » hay
« hợp hiến ». « Légitime » nguyên thủy bắt nguồn từ Latin
« legitimus », có nghĩa là « xác định bằng luật »,
« phù hợp với luật lệ ».
Nếu so sánh với xã hội loài thú, ta
thấy một đàn chim, một bầy sư tử… luôn có một con đầu đàn. Tính « chính danh »
của con thú này là sức mạnh, sự khôn ngoan và kinh nghiệm. Sức mạnh không phải
là « mạnh được yếu thua » hay khả năng tiêu diệt, mà là sự cần thiết
để bảo vệ an ninh cho cả bầy trước sự tấn công của các con thú khác. Khôn ngoan
và kinh nghiệm cũng vậy, là sự cần thiết để dẫn dắt cả đàn đến vùng nắng ấm, có
nhiều mồi ngon, cả bầy được sống trường tồn và sung túc.
Tính « chính danh » của
« quyền lực » ở VN được xác định ra sao ?
Hiến pháp VN qui định rằng thể
chế nước Việt Nam là « Cộng hòa xã hội chủ nghĩa » theo nguyên tắc « dân
chủ tập trung », đồng thời Việt Nam là một nước « có chủ quyền ».
Người ta hiểu thế nào là « cộng
hòa » và thế nào là « có chủ quyền » ?
« Cộng hòa », theo các
định nghĩa thông thường, là một thể chế chính trị mà quyền lực của người lãnh
đạo, ở bất kỳ cấp bậc nào, không đến từ sự kế thừa. Chế độ cộng hòa đối nghịch
với các chế độ phong kiến đế quyền.
Trong chế độ phong kiến, quyền
lực thụ đắc của người lãnh đạo là do sự kế thừa. Tính chính danh thể hiện qua
việc kế thừa.
« Có chủ quyền » được
hiểu là sự hiện hữu (trong lãnh thổ VN) một quyền lực chủ tể. Trong một chế độ
phong kiến, chủ quyền thuộc về vị chủ tể (vua, lãnh chúa…). Trong một chế độ
cộng hòa, chủ quyền thuộc về dân tộc (nation) hay thuộc về nhân dân (populaire).
Hiến pháp VN khẳng định quyền lực
chủ tể (chủ quyền) thuộc về nhân dân.
Nhìn lại những sự kiện vừa xảy
ra, con ông X, con ông này, con ông kia… quyền lực quốc gia được ban phát một
cách tùy tiện trong hàng ngũ con ông cháu cha. Dĩ nhiên quyền hành của các ông
hoàng đỏ này bị thách thức. Một chế độ nhìn nhận là « dân chủ »,
« cộng hòa », « có chủ quyền » thì dứt khoát không thể có
việc kế thừa quyền lực.
Nguyên tắc của mọi chế độ dân chủ
(dân chủ tự do hay dân chủ tập trung) là việc phân bổ quyền hành trong bộ máy
nhà nước phải đến từ « quyền chủ tể », tức đến từ nhân dân, thể hiện
qua các cuộc bầu cử. Tính chính danh của « quyền lực » được bảo đảm
bằng sự trung thực của kết quả các cuộc bầu cử.
Quyền lực của các thái tử đỏ này vì
vậy không có chính danh.
Nhân dân nào đã bầu cho các ông
thái tử đỏ này vào các chức vụ này ?
Vừa rồi, nhân dịp nhận chức, một
thái tử đỏ lên tiếng cho rằng quyền lực của cậu ta là do « đảng » ban
bố.
Tức là tính chính danh về quyền
lực của cậu ta được đảng bảo kê.
Vấn đề là đảng có
« quyền » làm việc này hay không ?
Câu trả lời nên dành cho các đảng
viên của đảng CSVN. Bởi vì họ là người trong chăn, họ có « bầu » cho
các thái tử này hay không ?
Nhưng trên phương diện pháp lý,
việc này có nhiều điều vướng mắc. Những vướng mắc này không những đặt lại tính
« chính danh » quyền lực của các thái tử đỏ mà còn đặt lại tính chính
danh (quyền lãnh đạo đất nước và xã hội) của đảng CSVN.
Hệ thống chính trị VN hiện nay «
cơ bản » đặt trên nền tảng « dân chủ ». Theo nguyên tắc dân chủ (kể cả dân chủ
tập trung), cũng không có một chức vụ hay cơ chế (quyền lực) nào thuộc bộ máy
nhà nước mà không thông qua (sự bầu cử) của người dân, hoặc sự bổ nhiệm của một
cơ quan quyền lực chính đáng.
Sự bổ nhiệm các thái tử đỏ do đó là
không hợp hiến.
Trước đây, những người cộng sản
bảo vệ tính chính danh của đảng CSVN với lý do đảng « đã lãnh đạo dân tộc
giành lại độc lập ».
Điều này không đúng trong thời
điểm hiện tại (và dĩ nhiên, tương lai).
Tạm cho rằng đảng CSVN đã « lãnh
đạo dân tộc giành lại độc lập » là một sự thật lịch sử, không có điều gì cần
tranh biện. Thì những người cộng sản hôm nay cũng không thể vịn vào lý do này
để tiếp tục giành quyền lãnh đạo.
Những thế hệ « khai quốc công
thần » chống Pháp, chống Mỹ, tức những người có tư cách, có chính danh để lãnh
đạo, đã lần lượt khuất núi. Những người « có công », tức những người có tham
gia vào cuộc chiến, đã không còn bao nhiêu người. Ngay cả thế hệ lãnh đạo hiện
thời cũng không có mấy người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến « chống Mỹ ».
Nếu dựa vào « công lao », thì
trong đảng hiện nay không ai có công lao (giành lại độc lập) để đặt nền tảng
làm sự « chính danh ». Không ai có tư cách để lãnh đạo đất nước hết cả.
Thái tử út, con ông X, mới lên
tiếng kể lể công lao của ông nội, ông ngoại.
Ông X chỉ là một « du kích quèn
», xuất thân là một y tá. Công lao của ông này vào công cuộc « giải phóng miền
Nam », nếu so với các bà mẹ anh hùng, các gia đình liệt sĩ, các thương phế binh
khác... quả thật là khiêm nhường.
Mà tính chính danh không có « kế
thừa ». Nếu nhìn nhận sự kế thừa thì lý ra con cháu của những bà mẹ anh hùng,
những liệt sĩ, những thương phế binh... phải làm lãnh đạo mới đúng.
Con cháu của con chim đầu đàn,
của con sư tử đầu bầy, chỉ đơn thuần là một thành tố trong bầy, chớ không có kế
thừa để lên nắm đầu đàn. Muốn trở thành con thú đầu đàn, con chim đầu bầy,
những con thú này phải khẳng định sức mạnh, hay chứng minh trí khôn và kinh
nghiệm. Đó là sự « chính danh » trong thế giới loài thú.
Việc bổ nhiệm các thái tử đỏ,
những người xem ra tài năng chỉ ở mức (tối đa là) trung bình, đã khiến chế độ «
cộng hòa xã hội chủ nghĩa » trở thành chế độ « quân chủ xã hội chủ nghĩa ».
Có người biện hộ cho tính chính
danh của đảng CSVN với lý lẽ đảng này được dân bầu lên :
« Đầu năm 1946, Đảng Cộng sản đã
tổ chức bầu cử Quốc hội và ra Hiến pháp. Hệ thống chính trị Việt Nam có bầu
cử và những người của Đảng ra ứng cử vào các chức vụ. » (Vũ Minh Giang, nguyên
thành viên Hội Đồng lý luận của đảng, nói trên BBC về tính chính danh của đảng).
Điều này không đúng sự thật. Thứ
nhứt, thời điểm tổ chức bầu cử quốc hội (1946) đảng CS đã giải tán. Thứ hai, số
dân biểu đắc cử vào quốc hội gồm một số lớn nhân sự không thuộc đảng CSVN.
Nhưng cũng giả sử rằng thời điểm
đó đảng CS không giải tán và số người trong quốc hội 100% là đảng viên đảng
CSVN. Thì tính chính danh của đảng cầm quyền chỉ có hiệu lực trong nhiệm kỳ bầu
cử đó mà thôi. Không lẽ nhiệm kỳ đó kéo dài (đến nay đã gần) 70 năm ?
Lý lẽ khác cũng thường thấy người
cộng sản nhắc để biện hộ cho tính « chính danh » của họ là đại diện «
giai cấp vô sản ».
Bất kỳ đảng cộng sản nào cũng cho
rằng họ có « chính danh » để lãnh đạo đất nước, vì họ đại diện cho số đông
(nhân dân vô sản) trong xã hội. Nhà nước họ lập nên là « nhà nước vô sản », sử
dụng sự « chuyên chính vô sản », tức sự « độc tài » cho tầng lớp vô sản, nhằm
triệt tiêu giai cấp bóc lột đem lại sự « công bằng » trong xã hội.
Trong xã hội cộng sản (hay XHCN),
quyền lực quốc gia tập trung vào đảng CS. Quyền lực này chỉ chính đáng khi đảng
này còn phục vụ cho giai cấp mà họ đại diện, tức giai cấp vô sản, công nhân,
nông dân… nói chung là tầng lớp lao động nghèo.
Khi đảng này phục vụ cho một giai
cấp khác, như tầng lớp tư bản nước ngoài, tầng lớp tư bản đỏ… thì nó đã phản
bội lại giai cấp mà họ đại diện. Tính chính đáng để lãnh đạo của nó bị mất đi.
Ngày hôm nay, dựa vào « giai
cấp vô sản » để biện hộ cho tính chính danh trở thành một sự ngụy biện
trắng trợn. Đảng CSVN bay giờ không hề đại diện cho quyền lợi của « giai cấp vô
sản », tức giai cấp công nhân, nông dân, những người lao động nghèo… trong xã
hội. Bản thân của họ đã trở thành những trọc phú bóc lột. Bản thân họ là những
quan tham. Nhân sự của hệ thống quyền lực quốc gia đã trở thành những con sâu
mọt đục phá tài sản quốc gia, nhũng nhiễu dân lành.
Ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang
trước đây có than thở về tình trạng tham nhũng hết thuốc chữa của cán bộ Cộng
sản rằng : không phải một con sâu làm rầu nồi canh mà cả nồi canh đã nhung
nhúc sâu bọ.
Tính chính danh nào trong (nồi
canh) cộng sản nhung nhúc sâu bọ này ?
Mặt khác, VN vừa gia nhập TPP,
tức là VN tự nhìn nhận mình là « nền kinh tế thị trường ».
Xã hội chủ nghĩa hiện hữu là do
việc phản bác nền kinh tế thị trường (tư bản). Lý thuyết cộng sản đặt nền tảng
trên sự phản biện tư sản bóc lột giai cấp lao động. Khi nền kinh tế XHCN được
thay thế bằng nền kinh tế thị trường thì đảng cộng ản phải cáo chung.
Đảng CSVN không thể lãnh đạo một
nền kinh tế thị trường. Nếu gượng ép, họ không chỉ mất tính chính danh mà còn
trở thành một tập đoàn lừa bịp.
Đảng CSVN cũng không có chính
danh như đảng CS TQ.
Đảng CSTQ dầu sao cũng có thể
biện minh cho sự chính đáng lãnh đạo của mình, vì đã thành công (trong chừng
mực) việc phát triển quốc gia và (bành trướng lãnh thổ).
Đảng CSVN sau nhiều thập niên
lãnh đạo đã tàn phá đất nước, đã dẫn dắt đất nước ngày càng tụt hậu, nay đã lùi
sau cả Lào, Kampuchia. Con người VN không có giá trị một đồng xu.
Tức là, nếu so sánh với bản năng của
các con thú đầu đàn, đảng CSVN thua xa lắc. Họ chỉ còn sức mạnh của bạo lực.
Đảng CSVN bây giờ là đại diện cho
tầng lớp tư bản hoang dã, tầng lớp đầu cơ trục lợi cũng như đại diện cho quyền
lợi của tầng lớp tư bản nước ngoài. Đảng viên cộng sản trở thành những tên cai
thầu coi ngó người dân VN như là những công nhân lao động cho tập đoàn nước
ngoài.
Chính danh ở đây là chính danh
làm cai thầu, chính danh đưa dân tộc vào vòng làm thuê vác mướn.
Thái tử đỏ lên tiếng nói rằng
chức vụ là do « đảng giao phó ».
Khi đảng không còn chính danh, đã
đánh mất tư cách lãnh đạo, thì chức vụ của các thái tử đỏ vì vậy cũng không có
chính danh.
Tầng lớp thái tử đỏ mới lên có
thể làm được điều gì tốt đẹp cho đất nước và dân tộc VN ? Tính chính danh
không có. Họ nói không ai nghe. Đất nước vào trong tay họ là chờ ngày tan rã mà
thôi.
Dĩ nhiên, khi quyền lực của lớp lãnh
đạo không có chính danh, hiện tượng « bất tuân dân sự » sẽ xuất hiện.
Lúc đó người dân sẽ đứng dậy lấy lại quyền lực của mình.