Hơn một tháng sau khi Tòa Trọng tài Thường trực (La Haye,
Hòa Lan) ra phán quyết 12 tháng 7 năm 2016. Những tranh chấp về cách diễn giải
và áp dụng Luật Biển (UNCLOS) giữa Phi và TQ tưởng rằng đã được Tòa làm sáng
tỏ. Ngày 21-8 vừa qua, Tổng thống Duterte của Philippines ra tuyên
bố: "Phi có thể rút ra khỏi Liên Hiệp quốc".
Tuyên bố như một
gáo nước lạnh, không chỉ gieo sự bất an cho toàn khu vực, mà còn đặt ra nhiều nghi
vấn về tương lai Biển Đông.
Ông Duterte còn
cho biết Phi có thể sẽ cùng TQ và các nước Châu Phi lập một tổ chức "liên
hiệp quốc" khác.
Để sang một bên
nguyên nhân vì đâu ông Duterte lại có tuyên bố như vậy.
Bộ Luật Quốc tế về
Biển 1982 (UNCLOS) cùng với nhiều công ước khác, cũng như Hiến chương LHQ, là
những công ước nền tảng làm nên "trật tự pháp lý thế giới", từ sau
Thế chiến Thứ II đến nay. Có thể LHQ vẫn chưa thực hiện hết những tiêu chí về
"hòa bình" của mình. Nhưng thử tưởng tượng, nếu không có "trật
tự pháp lý" mà tổ chức này là một hình thức đại diện, chắc chắn nhân loại
vẫn còn sống trong cảnh chiến tranh triền miên, mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt
cá bé. Dĩ nhiên những quốc gia "nhỏ", nhiều tài nguyên với một vị trí
chiến lược quan trọng, như Phi, chắc chắn sẽ bị một đế quốc nào đó, có thể là
TQ, Nhật hay Hoa Kỳ... chinh phục.
Nếu tuyên bố của
Duterte được Quốc hội Phi phê chuẩn, Phi không còn là thành viên LHQ (và cùng
TQ lập ra tổ chức đối lập khác). Mặc nhiên quốc gia Phi không còn bị ràng buộc
bởi các công ước nền tảng của tổ chức này. Các nguyên tắc hòa bình của Hiến
chương LHQ, cũng như UNCLOS, sẽ vô hiệu lực.
Điều sẽ đến là phán
quyết 12-7 của Tòa Trọng tài cũng không còn hiệu lực áp dụng (cho TQ và Phi).
Ta có thể suy diễn
rằng nguyên nhân tuyên bố của tổng thống Duterte là dựa trên các báo cáo của sứ
giả mà ông đã phái đi Hồng Kông, sứ mạng là tìm cách nối lại đối thoại với Bắc
Kinh. Quan hệ hai bên bị "đông lạnh" sau khi Tòa CPA ra phán quyết
ngày 12-7. Ta thấy hình dáng một "plan B" của Bắc Kinh nhằm đối phó
với phán quyết 12-7 của Tòa CPA, mà TQ gọi là một "âm mưu chính trị"
của Hoa Kỳ. Tuyên bố của Duterte cho thấy hai bên, Phi và TQ, trong chừng mực
đồng thuận về "plan B" này.
Điều này có thể đã
được khẳng định. Mới hôm trước TT Duterte cho biết, kỳ họp thượng đỉnh ASEAN sẽ
tổ chức ở Lào vào đầu tháng chín tới, Phi sẽ không đưa vấn đề liên quan Biển
Đông vào hội nghị. Theo ông Duterte, Phi sẽ đối thoại song phương với TQ về
những tranh chấp biển, đảo hiện đang tồn tại giữa hai bên.
Bàn cờ chiến lược
ở Biển Đông có đặt lại hay không là do quyết định của Quốc hội Phi về hiệu lực
tuyên bố của ông Duterte.
Điều này chắc chắn
làm cho sự suy nghĩ của lãnh đạo VN (và các học giả VN về Biển Đông) phải thay
đổi để đối phó với tình thế.
Đối với Việt Nam,
bên (tưởng là) hưởng lợi nhiều từ phán quyết của Tòa trọng tài ngày 12-7. Người
ta nghĩ rằng phán quyết đã giúp cho VN giải quyết mọi chuyện.
Những thôi thúc
của một bộ phận người dân yêu cầu đảng CSVN thực thi việc kế thừa danh nghĩa
VNCH và các quốc gia tiền nhiệm như "Quốc gia Việt Nam" của Bảo Đại
nhằm khẳng định chủ quyền của VN tại HS và TS, từ nay có thể bỏ ngoài tai.
Cũng vậy, các yêu
sách về "hòa giải quốc gia" cũng bị dẹp sang một bên.
Nhà nước CSVN cho
rằng, khi mà các thực thể ở Trường Sa chỉ có hiệu lực của "đá", theo
phán quyết Tòa Trọng tài 12-7, chỉ có lãnh hải tối đa 12 hải lý, thì TQ hay VN,
bên nào có chủ quyền quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vấn đề không còn quan
trọng.
Tranh chấp HS và
TS giữa VN và TQ bắt đầu từ cả trăm năm. Tranh chấp chỉ nổi sóng gió từ thập
niên 70, sau khi các giàn khoan của VNCH cũng như của các nước trong khu vực, khám
phá ra dầu hỏa dưới đáy Biển Đông. Luật Biển 1982 càng làm cho tranh chấp này
gay gắt thêm. Bởi vì, điều thứ 121 của bộ Luật qui định rằng một đảo cũng có
hiệu lực 200 hải lý "vùng kinh tế độc quyền - ZEE". Tức là quốc gia
có chủ quyền đảo được Luật này cho phép "độc quyền" khai thác tài
nguyên trong cột nước, dưới mặt đáy biển và thềm lục địa của các đảo, trong khu
vực 200 hải lý, tính từ đường cơ bản của đảo.
TQ, với căn bản
pháp lý dựa trên những văn bản từ thế kỷ trước của VNDCCH nhìn nhận chủ quyền
của TQ ở HS và TS, đưa ra yêu sách đường chữ U chín đoạn, chiếm gần hết Biển
Đông. TQ dựa trên hai lý lẽ: 1/ quyền lịch sử và 2/ quyền thuộc chủ quyền (tức
ZEE) sinh ra ở các đảo.
Phán quyết 12-7
thu hẹp đáng kể các yêu sách của TQ. Quyền lịch sử của TQ bị Tòa bác bỏ, trong
khi các đảo TS thì không có cái nào thực sự là "đảo" để yêu sách vùng
"kinh tế độc quyền".
Những tuyên bố vừa
qua của tổng thống Duterte, trong chừng mực, giới hạn hiệu lực của phán quyết
12-7 của Tòa CPA, đồng thời củng cố lại yêu sách đường chữ U chín đoạn của TQ.
Những cuộc
"đi đêm" với Bắc Kinh của sứ giả TT Duterte, cho thấy VN không còn ở
tư thế "ngư ông", hưởng lợi từ tranh chấp nghêu cò là TQ và Phi. TQ
và Phi bắt tay, phía thiệt hại sẽ là VN.
VN phải làm lại từ
đầu.
Tức là, đối với
VN, chủ quyền HS và TS vẫn là vấn đề trọng tâm. Nếu không thuyết phục được dư
luận quốc tế về danh nghĩa chủ quyền của mình ở VN và TS, VN sẽ ở vào một tư
thế hết sức bất lợi. VN không thể vịn vào các điều ước của Hiến chương LHQ, áp
dụng cho TS, về "quyền tự vệ chính đáng".
Tuần trước, báo
chí quốc tế đăng tin rằng VN đã đem một số giàn rốc kết EXTRA, mua của Do Thái,
ra đặt ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Mặc dầu bộ ngoại giao VN nhanh chóng phủ nhận
việc này, nhưng một số học giả VN cho rằng VN có thể giành quyền "tự vệ
chính đáng" để làm việc này. Việc TQ xây dựng các đảo nhân tạo ở TS, sau
đó biến chúng thành các căn cứ quân sự cho không quân và hải quân, là một hành
vi đe dọa cho an ninh VN.
Phản ứng của TQ
trước việc này phải nói là gay gắt. Nhiều bài báo đăng tải các ý kiến yêu cầu
Tập cận Bình "đánh cho VN sặc máu mũi". Trong khi Hoa Kỳ thì không
hoan nghênh.
Điều này cho thấy,
trong chừng mực, Hoa Kỳ không nhìn nhận lý do "tự vệ chính đáng" ở
các học giả VN. Và thái độ này có thể giải thích.
Ta phải nhìn nhận
rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, cũng như một số tài liệu khác do
VNDCCH phát hành, đã đưa VN vào tư thế kém về pháp lý so với TQ: VN nhìn nhận
chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Điều nguy hiểm là
dựa vào nội dung các văn kiện này TQ có thể tấn công để chiếm lại các đảo mà VN
chiếm đóng, bất kỳ khi nào họ thấy chắc thắng.
TQ và Phi "đi
đêm" với nhau, việc áp dụng phán quyết của Tòa CPA ngày 12-7 có thể sẽ
không bao giờ được thực thi. VN sẽ bị cô lập. Mà khi toàn bộ các đảo TS thuộc
về TQ, vùng "kinh tế độc quyền ZEE" của VN, sinh ra từ bờ biển của
quốc gia, sẽ bị mất rất nhiều do "chồng lấn" ZEE của các đảo TS thuộc
TQ.
VN không thể đi
kiện TQ vì các vướng mắc pháp lý. Còn quyền "tự vệ chính đáng" thì bị
nghi ngờ.
Như vậy, vấn đề
khẳng định chủ quyền ở Trường Sa, chưa bao giờ trở thành việc quan trọng và cấp
bách cho VN như hôm nay.
VN bắt buộc phải
hóa giải hiệu lực pháp lý công hàm 1958 cũng như các tài liệu ủng hộ chủ quyền
của TQ do VNDCCH phát hành. Mà việc này chỉ có thể thực hiện bằng việc nhìn
nhận và kế thừa di sản các thể chế tiền nhiệm như "Quốc Gia VN" của
Bảo Đại (sinh ra từ Hiệp ước Elysée 1949), hai nền đệ nhứt và đệ nhị VNCH, là
những nhà nước kế thừa di sản nhà nước bảo hộ Pháp và các triều đại vương quyền
VN. Những nhà nước này đã khẳng định và sáp nhập HS và TS vào lãnh thổ VN theo
các trình tự pháp lý quốc tế.
Và khi đặt ra vấn
đề kế thừa và muốn thể hiện nó, việc "hòa giải quốc gia" là bước đầu
tiên.
Nhưng thái độ của
nhà cầm quyền VN hôm nay, vẫn xem các chế độ VNCH là "ngụy", cho thấy
họ từ chối kế thừa di sản của các nhà nước tiền nhiệm. Việc đặt vũ khí mới mua
của Do Thái ở các đảo TS, cho thấy lãnh đạo CSVN đã lựa chọn sử dụng vũ lực để
đối đầu với TQ.
Nhưng nếu nhìn sâu
vào vấn đề, ta thấy lãnh đạo CSVN có thể đem xương máu VN chống TQ một lần nữa,
như vụ Gạc Ma 1988. Dĩ nhiên mục đích không phải để bảo vệ lãnh thổ, vì VN
không thể thắng trước TQ trên mặt trận Biển Đông. Họ làm vậy chỉ vì muốn giao
TS cho TQ mà không làm mất thể diện của đảng CSVN.
VN có phương pháp
khác, hòa bình, để giữ vững lãnh thổ. Bằng không thì cũng giành được tư thế
"tự vệ chính đáng". Chỉ khi giành được tư thế này VN mới có hy vọng
thắng trong chiến tranh, vì có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và dư luận thế giới.
Phương pháp đó là
thực thi "hòa giải quốc gia".
Việc này có thể đem tai hại cho thanh danh đảng CSVN.
Hành vi hòa giải là
nhìn nhận những sự thật về lịch sử. Mà điều này đặt lại hoàn toàn các
"công lao" mà đảng CSVN cho rằng đã đóng góp cho đất nước.
Thanh danh của
đảng CSVN đối với chủ quyền của quốc gia, cái nào nặng hơn, là sự lựa chọn của
thành phần trí thức, học giả VN... Chỉ có lực lượng trí thức VN, khi ý thức
được đâu là quyền lợi của đất nước, đồng loạt lên tiếng làm áp lực yêu cầu nhà
nước CSVN thể hiện việc "hòa giải quốc gia". Việc giữ toàn vẹn lãnh
thổ mới hy vọng đạt được.