dimanche 27 mars 2016

Viết gì nhân ngày sinh nhựt "6 bó" 27-3 ?

Hôm qua có người viết chúc mừng sinh nhựt, gọi tôi là "cây bút thâm niên". Nghĩ cũng vui. Tử vi của mình chắc có sao "phong cáo" giữ mạng, nên "khi không" được mang nhiều "chức danh", theo kiểu trên trời rớt xuống. "Cây bút thâm niên" là cái "danh" mới được tặng, mặc dầu tôi chưa bao giờ (được hãnh diện) cộng tác với tờ báo nào.

Tương tự, tôi có bằng tiến sĩ bao giờ đâu mà cũng có nhiều người gọi tôi là "Tiến Sĩ". Lại có người gọi tôi là "học giả", là "nhà nghiên cứu" nọ kia. Lâu lâu còn có người gọi mình là "giáo sư". Nhiều khi đọc (hay nghe) tới chỗ này trong bụng cũng thấy hơi "sượng" một chút (sượng chớ không phải sướng nghe bà con). Gò má thấy hơi nóng, chắc là máu mắc cở đang chảy rần rần trong đó.

Tiến sĩ, giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu... đâu phải là cái bánh, cục kẹo mà gọi dễ dàng như vậy ?

Thì nhân ngày sinh nhựt 6 bó mình thử mổ xẻ hiện tượng "phong cáo" này cho vui (nhấn mạnh: "phong cáo" chớ không phải "phong thần" nghe bà con. Mặc dầu cầm viết lăn lóc tới 6 bó thì "võ lâm phong thần bảng" sắp ghi danh rồi!).

Nguyên nhân do đâu ?

Do "hên", theo lối "chó ngáp nhằm ruồi" ?

Mới đây nhứt, bài tôi viết ngày 28-7-2015 về tranh chấp biên giới giữa Campuchia và VN.
Đúng là "chó ngáp nhằm ruồi", báo chí đang tải một tấm hình trong đó các học giả, chính trị gia... Campuchia đang hội thảo về vấn đề VN lấn đất. Hên là một chi tiết trong tấm hình đó đã quá quen thuộc với mình. Chỉ nhìn lên đó tôi biết được khu vực tranh chấp là ở đâu, trên tấm bản đồ nào, ai lấn đất của ai, diện tích tranh chấp là bao nhiêu cây số vuông...

Bài viết còn ở đây.

Rõ ràng là sự hiểu biết của mình ở đây, là nhờ "hên", nhờ "trúng tủ", chớ không phải vì mình là "nhà nghiên cứu" hay "học giả" cái khỉ khô gì !  

Cũng vậy, một thí dụ khác để chứng minh cái "hên" bẩm sinh.

Khi đọc bài viết của hai vị học giả gạo cội của VN, một là GS Tạ Văn Tài, nghe nói là giáo sư luật ở trường đại học nào đó ở bên Mỹ. Hai là ông Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nghe nói là chuyên gia nghiên cứu ở một cơ quan thuộc LHQ. Bài viết hai vị học giả giải thích nội dung Công ước của LHQ về Kế tục Quốc gia. Đây là một vấn đề chuyên môn về luật quốc tế.

Bài viết của tôi ở đây.

Rõ ràng là nhờ "hên", kiểu "chó ngáp nhằm ruồi", kiến thức trên trời rớt xuống, nên tôi thấy ngay cái sai của hai vị học giả và phản biện lại.

Thí dụ khác. Có lẽ tôi là người duy nhứt đặt cược "ngựa về ngược", từ tháng 5 năm ngoái, rằng ông Trọng sẽ ngồi lại vị trí TBT.

Rốt cục, nhờ "hên", ngựa tôi (tuy già) nhưng (còn gân) về trước.

Sau vụ này tôi có ra "tuyên bố" rằng sau này về hưu tôi sẽ mở văn phòng bói toán. Văn phòng lấy tên "Lốc cốc tiên sinh", bói không trúng không lấy tiền.

Mà không phải tôi chỉ "hên" có bấy nhiêu. 

Nhớ lại những năm 90 của thế kỷ trước... trong nước ồn ào vọng ra hải ngoại: "CSVN bán đất nhượng biển" cho Tàu.

Thời đó, nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu... trong và ngoài nước, đua nhau lên tiếng về vấn đề lãnh thổ, biên giới, biển đảo... Nhiều bài viết về ải Nam Quan, về thác Bản Giốc, về Hoàng Sa, Trường Sa... được xuất hiện trên báo chí. Với những bằng chứng rành rành, lấy từ kho tư liệu (vĩ đại) của Việt Nam: Phương đình Địa dư chí, Đại Việt sử ký toàn thư, Kiến văn tiểu lục...

Vấn đề là không có bài viết nào xác định được cột mốc ở Nam Quan được cắm ở đâu? Thác Bản Giốc nằm ở đâu (trên vùng biên giới).

Cũng nhờ "hên", khi vào văn khố của Pháp để lục lọi, tôi tìm ra trúng phóc tài liệu về biên giới VN và TQ theo các công ước Pháp Thanh 1887-1895.

Nhờ cái hên "chó ngáp nhằm ruồi", dữ liệu từ trên trời rớt xuống, tôi mới "giải mã" được vị trí thực sự của cột mốc phân giới vùng Nam Quan là ở đâu, thác Bản Giốc nằm ở đâu.

Dĩ nhiên, trong nước có người nắm vững việc này, như những người phụ trách việc phân định biên giới. Nhưng không phải "chuyên gia" nói là "thánh phán", là đúng.

Bài viết ở đây tôi phản biện các ý kiến của Tiến sĩ Trần Công Trục.

Về vấn đề biên giới, Giải Âm Sơn và Lão Sơn, một nhóm "nhà nghiên cứu" gồm nhiều tiến sĩ, giáo sư v.v... đã công bố trước công chúng một "công trình nghiên cứu đồ sộ". Công trình này nghiên cứu bằng "dụng cụ" "Terra Go" (mà không ghi nguồn), trên những tấm bản đồ có sẵn. Vấn đề là "công trình" này có nhiều điểm sai "cố ý". Điển hình ở khu vực Lão Sơn và Giải Âm Sơn.

Bài viết của tôi ở đây (nhằm thiết lập lại sự thật chớ không nhằm phản biện).

ở đây.

Tài liệu của tôi (từ văn khố Pháp, trên trời rớt xuống), thấy làm sao tôi trình bày y như vậy.

Còn về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, nhiều "học giả" VN đã sử dụng "công pháp quốc tế", giải thích "luật", nhưng mục đích sao cho lãnh đạo hài lòng, dân chúng nghe sướng tai, chớ không nhằm thiết lập một hồ sơ pháp lý.

Vì "hên" bẩm sinh, "luật quốc tế" từng cuốn chạy một hơi vồ đầu, nên tôi thấy những lý lẽ của các học giả VN là "có vấn đề". Một bài viết tiêu biểu của tôi phản biện các ý kiến của học giả VN.

Và đặc biệt, nhờ "hên", tôi cũng tìm ra được phương pháp hóa giải các văn kiện của VNDCCH nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS, như bài viết ở đây.

Nếu nói ra hết những cái "hên", "chó ngáp nhằm ruồi" mà tôi có được, có lẽ phải viết rất dài.

Túm lại, gọi tôi là "cây viết thâm niên" thì cũng đúng thôi. Vấn đề là tôi không có cộng tác với báo chí nào hết cả. Trong nước thì khỏi nói, mà hải ngoại cũng vậy.

Người ta thích đăng những bài mà tác giả phải là "giáo sư", "tiến sĩ", học giả... tệ lắm thì cũng "thạc sĩ" nọ kia... Tôi thì trơ cùi bắp, không có gì cả.

Vấn đề là tôi có khả năng sửa lưng giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia... ngay ở lãnh vực chuyên môn của họ.
Thí dụ về vấn đề biên giới. Tôi cho rằng kiến thức của tôi không hơn được những nhà chuyên môn, những người đã từng phụ trách vấn đề phân định biên giới trong nước. Nhưng để đạt được "tầm cỡ" của họ tôi phải nỗ lực gấp hai, ba lần.

Các chuyên gia trong nước, hồ sơ biên giới thế nào đã có sẵn, họ chỉ mở ra và đọc.

Còn tôi, hồ sơ biên giới thì "từ văn khố Pháp trên trời rớt xuống", mặc dầu do "chó ngáp nhằm ruồi", nhưng tài liệu lộn xộn, hàng đống. Vì vậy, do "hên", nên tôi phải đọc, phải sắp đặt lại.

Vấn đề Biển Đông cũng vậy. Chỉ là "tay ngang" nhưng tôi phản biện, vạch ra từng cái sai (cơ bản) của các chuyên gia Biển Đông, của luật sư, tiến sĩ, giáo sư...

Nhưng báo chí ít khi đăng các bài viết của tôi lắm.

Báo chí hải ngoại, cũng như trong nước, họ làm là có mục đích.

Trong nước thì khỏi nói. Ở hải ngoại, nếu không vì động lực thương mãi, thì phía sau mỗi tờ báo là một tổ chức chính trị. Vì vậy, báo chí này chỉ đăng tải bài của "gà nhà".

Tôi viết, đến nay tuổi đã 6 bó, chỉ vì một mục đích thiết lập "sự thật" và một cứu cánh "một đất nước Việt Nam tốt đẹp". Tôi không cần báo chí đăng bài của tôi. Tôi cám ơn internet, cám ơn facebook, blogger... đã cho tôi phương tiện để bà con đọc bài viết của tôi.

Tôi cám ơn mọi người đọc bài viết của tôi.

Tôi trân trọng cám ơn những người chúc mừng sinh nhựt của tôi.


Gọi tôi là thế này, thế kia, tôi rất cám ơn, nhưng thật tình không dám nhận. Tôi là một người Việt Nam bình thường, kiến thức trung bình với có lối suy nghĩ hết sức bình thường. Tôi viết như "máu chảy về tim", như con chim hót chào mừng buổi sáng.   

samedi 5 mars 2016

Thoát Trung: thử hóa giải lời nguyền địa lý.

Thế nào là "thoát Trung" ? Nếu là để thoát khỏi "ảnh hưởng" của Trung Quốc thì, theo tôi, không hẳn chỉ là các vấn đề thuộc về văn hóa, kinh tế hay "lời nguyền địa lý" như nhiều học giả VN đã và đang bàn luận.

Thử lấy thí dụ Nhật Bản, Đài Loan và Đại Hàn. Văn hóa (nếu không nói là văn minh) của ba nước này, trên nhiều mặt của xã hội hiện nay vẫn thể hiện sâu đậm màu sắc của văn hóa Khổng giáo. Về chữ viết đã đành. Thử xem một vài phim tình cảm xã hội của Đại Hàn, Đài Loan hay Nhật sản xuất. Ta thấy sao mà quen thuộc quá. Nếu bỏ qua những đường nét, khung cảnh hiện đại của những thành phố tiên tiến trong một quốc gia phát triển, thì ta tưởng đó là phim xã hội VN. Khung cảnh trong gia đình của một người Đài Loan, Đại Hàn, thậm chí Nhật, đều giống nhau, như Việt Nam (nhứt là VNCH trước kia). Đó là mô hình của một xã hội ảnh hưởng văn hóa Khổng Mạnh. Dĩ nhiên là văn hóa này đã giảm thiểu nồng độ cực đoan, đến từ việc du nhập văn hóa bao dung và tự do của Tây phương. Ta không còn thấy cảnh thân phận người phụ nữ bị bó rọ trong "tam tòng, tứ đức", cũng không thấy người đàn ông với những tín điều cứng nhắc "tam cương, ngũ thường"... 

Câu hỏi đặt ra, nếp sống gia đình  ở Nhật, ở Đài Loan, ở Hàn quốc, có tốt hơn nếp sống gia đình ở VN hay TQ hiện nay, ảnh hưởng chủ thuyết duy vật của Mác Lê Nin hay không ?  

Câu hỏi tiếp theo, là các nước Nhật, Hàn quốc, Đài Loan... về phương diện địa lý, cũng có "lời nguyền" về "địa chính trị" không khác lắm với Việt Nam. Vậy sao họ "cách biệt", nếu không nói là "thoát và vượt Trung" hàng thế hệ về tiến bộ văn hóa, khoa học kỹ thuật ?

Còn về vấn đề kinh tế, liên thuộc kinh tế giữa Trung Quốc với các nước Nhật, Hàn, và Đài Loan hết sức là gắn bó keo son. TQ đã, đang và sẽ mãi là đối tác quan trọng hàng đầu của ba nước này. TQ nhờ tư bản và kỹ thuật các nước này đầu tư nên mà kế hoạch "hiện đại hóa" thành công. Các nước này nhờ TQ mà kinh tế tăng trưởng đều đặng. Vậy họ có cần "thoát" lẫn nhau không ?

Các nước trên, về phương diện chữ viết, cũng như VN trước thời Pháp thuộc, đến hôm nay cũng vẫn giữ nguyên tắc cơ bản chữ Hán. Nhưng VN, có lẽ vì muốn "khác người", nhứt là phải khác (và vượt trội) VNCH, do đó có khuynh hướng xóa bỏ các từ Việt gốc Hán. Một số kinh nghiệm sau 1975 với các ngôn từ ngây ngô, như từ "xưởng đẻ" để thay thế cho "nhà hộ sinh". Bệnh viện Từ Dũ ở Sài Gòn có lúc đổi tên là như vậy. Lại còn các từ như "máy bay lên thẳng", "lính thủy đánh bộ", "giặc lái"...
Việc sử dụng từ gốc Hán không có gì phải mặc cảm. Người Nhật, người Hàn... xem ra còn lệ thuộc vào chữ Hán còn hơn VN. Bên Châu Âu cũng vậy, chữ viết các xứ này đều bắt nguồn từ Latin, Grec... Những từ khoa học các nước  Âu Mỹ hầu hết đều có gốc Latin hay Grec. Các nước này đâu thấy ai lên tiếng than phiền là lệ thuộc, tỏ ý muốn "thoát Trung" hay "thoát Grec (hay Latin)" đâu ?

Lệ thuộc hay không là do mình. Ta thấy một lượng lớn từ ngữ chuyên môn (học thuật hay khoa học) Hán Việt bắt nguồn từ Nhật, do các học giả Nhật phát minh ra. Chỉ số chất lượng về đời sống, về văn hóa, về kinh tế... trên mỗi con người của Nhật, Hàn, Đài Loan hơn xa Trung quốc. Trong khi thành quả các tiến bộ về văn hóa, khoa học, kỹ thuật... Trung Quốc cũng bị các nước Nhật, Hàn... đã bỏ xa hàng vài thập niên. Như thế, ta thấy việc ảnh hưởng văn hóa Hán (chữ viết) không hề ảnh hưởng lên việc phát triển quốc gia.

Về kinh tế cũng vậy, sự liên thuộc về kinh tế giữa hai nước Nhật, Hàn và Đài loan với Trung Quốc không chừng còn quan trọng hơn quan hệ giữa TQ với Hoa Kỳ và UE cộng lại. Trong các quan hệ này, ta dùng từ "liên thuộc" chứ không phải "lệ thuộc". Nếu chỉ tính từ thập niên 80, TQ luôn nhập siêu từ Hàn quốc và Nhật. TQ cần các mặt hàng có tính khoa học kỹ thuật cao của hai nước này để phát triển đất nước. Trong khi Nhật và Đại Hàn cũng cần đến TQ để phát triển kinh tế. Cho dầu Nhật và TQ có những mâu thuẫn sâu sắc về chủ quyền quần đảo Senkaku (Điếu Ngư), nhưng TQ chưa hề dám đe dọa dùng vũ khí kinh tế đối với Nhật.

Như vậy, dựa trên hai yếu tố văn hóa và kinh tế để "thoát Trung", (như các học giả VN đã và đang hô hào) rõ ràng Nhật và Đại Hàn đang có khuynh hướng ngược lại : "nhập Trung" thay vì "thoát Trung".
Nhưng quan hệ kinh tế hai bên Việt-Trung, số kim ngạch trao đổi hai bên cán cân luôn thặng dư về phía TQ. Việc thâm thủng này ngày mỗi tăng. Điều quan trọng là quan hệ kinh tế giữa VN và TQ, trong chừng mực, là quan hệ "thực dân – thuộc địa về kinh tế". Nếu đọc lại các bản tuyên bố chung của hai bên được công bố gần đây, ta thấy VN đã nhượng cho TQ quá nhiều đặc quyền, đến đỗi các việc này có thể đe dọa nền độc lập của quốc gia. Không nói quá, mọi huyết mạch của kinh tế VN hiện nay đều do TQ kiểm soát.

Điều này đến từ các quyết định chính trị chứ không phải là những lựa chọn bắt buộc. Tức là VN vẫn có thể thoát khỏi tình trạng lệ thuộc kinh tế nếu lãnh đạo có can đảm về chính trị.

Vì vậy, theo tôi, thoát Trung hay không là một vấn đề  "chiến lược" chứ không hẵn là kinh tế hay văn hóa.

Một lý do thường thấy nhiều người VN nại ra, ngại khi quay lưng lại với Trung quốc, là vấn đề "địa chiến lược", nước xa không cứu được lửa gần.

Ta thấy các nước như Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Phi… (nếu không nói Đài Loan) đều ở kế "vách" với TQ, nhưng họ đâu sợ TQ. Các nước này, phần lớn, là các nước dân chủ, thịnh vượng.

Để xóa bỏ nỗi ám ảnh (chính đáng) "nước xa không cứu được lửa gần" của một số người VN hiện nay, ta cần nhắc lại một số điều cơ bản của các lý thuyết về địa chiến lược (mà lãnh đạo TQ bị ảnh hưởng).

Theo tôi, lý thuyết "Địa Chiến lược – Không gian sinh tồn" của Friedrich Ratzel (xuất bản năm 1902) có ảnh hưởng sâu sắc lên các lớp lãnh đạo (then chốt) của TQ, làm thay đổi bộ mặt của nước này, đó là : Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.

Bảy định luật của thuyết này là :

1. Không gian (sinh tồn) của một dân tộc được mở rộng đồng thời với văn minh của dân tộc đó. Một dân tộc có nền văn minh tiến bộ sẽ đồng hóa các dân tộc kém văn minh hơn.

2. Lãnh thổ quốc gia sẽ phát triển theo tỉ lệ thuận với sức mạnh kinh tế và đội ngũ thương buôn của quốc gia cũng như chủ thuyết phát triển quốc gia. Việc bành trướng vì thế chỉ tùy thuộc vào ý chí và phương tiện.

3. Việc bành trướng của cường quốc được thực hiện qua phương cách "hấp thụ và tiêu hóa" các nước nhỏ.

4. Đường biên giới quốc gia không xác định (biên giới linh động - frontière vivante). Biên giới xác định chỉ có giá trị tạm thời, chỉ để đánh dấu giữa hai giai đoạn bành trướng.

5. Trong quá trình bành trướng, lãnh thổ (bây giờ là biển) là mục tiêu chiếm hữu.

6. Các quốc gia yếu kém ở kế cận là mục tiêu bành trướng. Sự bành trướng của cường quốc không thể tiến triển nếu quốc gia lân bang cũng là cường quốc.

7. Hiện tượng bành trướng có khuynh hướng lan rộng do việc tranh dành lãnh thổ của các quốc gia.

Bảy định luật của Ratzel đã hoàn toàn chứng nghiệm cho dân tộc Hán từ lập quốc đến ngày hôm nay.

Định luật 1 : Nền văn minh Hán Tộc đã đồng hóa tất cả các dân tộc khác, kể các các dân tộc dũng mãnh đã chiếm hữu và trị vì Trung Quốc. Lúc đầu lập quốc, dân tộc Hán chỉ có một vùng đất nhỏ, nhưng sau đó bành trướng ra, đồng hóa các dân tộc chung quanh. Văn hóa các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Liêu, Kim… đã không còn dấu vết ở Trung Quốc.

Định luật 2 : Hiện đang thích ứng cho tình trạng TQ hiện nay. Sự vượt trội về kinh tế, cho phép nước này hiện đại hóa quân đội. Những hành vi khẳng định chủ quyền của TQ ở biển Đông, hay lên tiếng tranh chấp với Nhật ở quần đảo Senkaku, cho thấy ý chí của nước này.

Định luật 3 : Định luật này cùng với định luật 1 đã được dân tộc Hán áp dụng từ thời mới lập quốc và còn đang tiếp tục cho đến hôm nay. Dân tộc Hán luôn bành trướng và tiêu diệt (hay Hán hóa) tất cả các dân tộc khác. Hiện nay việc đồng hóa đang được thực hiện ráo riết tại Tây Tạng.

Định luật 5 cho thấy vẫn chưa lỗi thời, TQ đặt ra mục tiêu chinh phục Biển Đông (Hoàng Sa và Trường Sa) đồng thời dành lại quần đảo Điếu Ngư (Senkaku). Nhưng định luật này cần cập nhật thêm, vì chủ đích của việc chinh phục là vùng biển, qua hai mặt: chiếm hữu và xây dựng các đảo nhỏ ở HS và TS thành một "bức trường thành" nhằm mục đích phòng vệ lục địa, sau đó là tài nguyên.

Định luật 6 phản ảnh rõ rệt thái độ bành trướng của Trung Quốc ngày hôm nay : VN và Phi, hai nước yếu, nằm trong tầm nhắm của TQ. Trung Quốc không bao giờ muốn thấy một Việt Nam giàu mạnh. Một nước Việt Nam giàu, mạnh sẽ ngăn cản sức bành trướng của Trung Quốc. TQ đã sử dụng nhuần nhuyễn "quyền lực mềm" để kiểm soát VN, qua các mặt: ý thức hệ chính trị, văn hóa và kinh tế. Ta thấy trên thực tế, đảng CSVN là một bộ phận của đảng CSTQ. Về văn hóa, phim ảnh, sách vở... của TQ thống lĩnh trên các chương trình truyền hình VN. Người VN thuộc sử TQ hơn cả người TQ. Còn về kinh tế, hàng hóa TQ tràn ngập thị trường. Hàng hóa TQ len lõi nhập lậu vào VN, khiến nền công kỹ nghệ tư nhân VN chết đứng. Ngoài ra, các công trình xây dựng ở VN hiện nay hầu hết đều do nhà thầu TQ phụ trách. Nhìn thành quả đường xe điện ở Hà Nội, với đường rầy uống lượn nhấp nhô như "rồng", ta thấy ngay sự buông thả, vô trách nhiệm của lãnh đạo VN. Đó cũng là cách áp dụng uyển chuyển của lý thuyết "không gian sinh tồn", biến VN thành một chư hầu kinh tế.

Từ định luật 6, ta thấy cuộc chiến giữa TQ và Nhật chắn chắn sẽ xảy ra. TQ không thể trở thành đại cường nếu có nước Nhật mạnh ở kế bên (và ngược lại).

Định luật 7 cho thấy có nhiều điều cần điều chỉnh lại. Đất đai không còn là mục tiêu tranh chấp mà là việc tranh dành vùng biển, tranh dành thị trường, vùng ảnh hưởng. Ngoài ra là những xung đột giữa các nền văn minh (Thiên chúa - Hồi giáo) như hiện nay (theo thuyết của Samuel P. Huntington).

Theo tôi, quan trọng nhất trong các định luật trên là định luật 6. "Thoát Trung" là  thoát lệ thuộc chính trị, thoát u mê ý thức hệ, thoát mù quáng tình đồng chí anh em, thoát cám dỗ "4 tốt 16 chữ vàng"...  

Thoát ra được hay không là do lãnh đạo VN có bản lĩnh chính trị, lòng yêu nước, tính can đảm và ý chí dám hy sinh (quyền lợi bản thân và đảng phái) hay không.

Ta thấy định luật 6 chứng nghiệm cho các nước Nam Mỹ. Do gần với nước Mỹ, vì lý do "sinh tồn" của nước Mỹ, các nước này phải là là những nước nghèo (hay chỉ mới phát triển). (Ngoại trừ Canada, vì có cùng văn hóa và lý tưởng với Mỹ).

Trong khi những nước Nhật, Đại Hàn, Đài loan... là những nước kế cận TQ, mà TQ là địch thủ tiềm tàng của Mỹ, do đó bằng mọi cách Mỹ phải giúp các nước này để họ luôn giàu và mạnh hơn TQ (để không ngả về TQ). Điều này cũng đúng cho các nước Tây Âu trong thời chiến tranh lạnh, để các nước này có khả năng chống lại Liên Xô.

Vì thế, ở kế cận TQ không hẳn là điều xấu. Cũng như ở kế cận nước Mỹ chưa chắc là điều tốt. Nếu Nhật, Đại Hàn, Đài Loan... do nhờ ở kế cận TQ mà được Mỹ giúp phát triển đất nước giàu có, hùng mạnh, thì VN cũng có thể trở nên giàu và mạnh như vậy.

Thoát Trung do đó là vấn đề thuộc phạm vi lựa chọn: lựa chọn đồng minh, lựa chọn "ý thức hệ chính trị". Đó cũng là tầm nhìn "chiến lược" của lãnh đạo, chứ không phải là văn hóa hay kinh tế.