mardi 17 décembre 2013

Những vấn đề Việt Nam trong năm 2013: Vấn đề "xây dựng niềm tin chiến lược"

II.  Về vấn đề xây dựng niềm tin chiến lược.

« Xây dựng niềm tin chiến lược » là nội dung bài diễn văn của TT Nguyễn Tấn Dũng đọc tại buổi khai mạc « Đối thoại Shangri-La 2013 », được tổ chức tại Singapour ngày 31 tháng 5 năm 2013. Báo chí trong, ngoài nước đã có nhiều bài phân tích, nhận định, phê bình nội dung bài diễn văn này, người viết không tiện nhắc lại. Đại khái TT Nguyễn Tấn Dũng cho rằng : « Muốn có hòa bình, phát triển, thịnh vượng thì phải tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược… ». Theo TT Nguyễn Tấn Dũng, ba yếu tố nền tảng để  « xây dựng niềm tin chiến lược » là : 1/ hòa bình, 2/ tuân thủ luật pháp quốc tế và trách nhiệm của các quốc gia và 3/ ASEAN đoàn kết và có vai trò trung tâm (trong các hợp tác đa phương).

Sáu tháng đã trôi qua. Biến chuyển trong khu vực có chiều hướng thay đổi không theo mong muốn của TT Nguyễn Tấn Dũng. Các động thái từ phía Trung Quốc, đối với Biển Đông và biển Hoa Đông, cho thấy nước này không chỉ bất chấp luật pháp quốc tế, mà còn coi nhẹ trách nhiệm quốc gia trước những vấn đề an ninh hàng hải, hàng không dân sự như qui định của các công ước quốc tế. Các động thái của TQ tại Hoa Đông, nhất là tại biển Đông, đe dọa hòa bình cả khu vực.

Nếu xét lại một số thực tế lịch sử quan hệ quốc tế, các yếu tố « nền tảng » mà TT Dũng đặt lên đó làm căn bản lý luận, có thể không thuyết phục. Các yếu tố « hòa bình », « tuân thủ luật pháp quốc tế », « trách nhiệm của các quốc gia » chưa bao giờ được sử dụng để xây dựng « niềm tin chiến lược » trong quan hệ quốc tế. Trên thực tế chỉ có « quyền lợi » về kinh tế, về chính trị hay về an ninh mới tạo được nối kết chiến lược giữa các quốc gia.

Thông điệp « xây dựng niềm tin chiến lược » trong bài diễn văn của TT Nguyễn Tấn Dũng không dễ giải mã.

VN muốn xây dựng « niềm tin chiến lược » với ai, vì mục đích gì ? để tiến đến « quan hệ chiến lược » với nước nào ?

Vài thí dụ dưới đây cho ta hiểu các phương cách « xây dựng niềm tin chiến lược ». Ta cũng sẽ thấy từ « niềm tin chiến lược » đi đến quan hệ « chiến lược » là xa thăm thẳm.

1/ Quan hệ Mỹ-Nhật sau Thế chiến II : Sau khi Nhật đầu hàng tháng 8-1945, Mỹ đã xây dựng niềm tin chiến lược đối với Nhật như thế nào để dân chúng nước này không nghiêng về phía Nga ? Bởi vì trên thực tế, lực lượng Mỹ có mặt tại Nhật như là là một lực lượng bảo hộ (thực dân) và một phần lãnh thổ của Nhật phải cắt cho Mỹ.

Thật vậy, sau khi Nhật đầu hàng tháng 8 năm 1945, một vùng lãnh thổ của Nhật là quần đảo Lưu Cầu được đặt dưới quyền quản lý của Hoa Kỳ. Việc này do nội dung của Nghị quyết năm 1947 của Liên Hiệp Quốc : nếu Hoa Kỳ xét thấy vùng đất nào (của Nhật hay của Nhật từ bỏ) có quan trọng về chiến lược, thì được phép quản lý. Quần đảo Nansei (Nam Tây) được xếp vào trong trường hợp này. Nghị quyết ONU 1947 được khẳng định qua điều 3 của Hòa Ước San Francisco 1951 (ký kết giữa Nhật và các nước có tuyên bố chiến tranh với Nhật). Theo đó quần đảo Nansei (Nam Tây), bắt đầu từ phía nam vĩ tuyến 29, thuộc quyền quản lý của Hoa Kỳ. Tức toàn bộ quần đảo Ryukyu (Lưu Cầu), bao gồm luôn các đảo Senkaku (Điếu Ngư). Vùng lãnh thổ này thường được các nước gọi dưới tên chung chung : quần đảo Okinawa.

Điều ghi nhận là mặc dầu được đặt dưới quyền quản lý của Hoa Kỳ, nhưng phần lãnh thổ này Nhật vẫn giữ được chủ quyền trên pháp lý (souveraineté résiduelle). Dân chúng sống tại các đảo này vẫn giữ quốc tịch Nhật mà không có quốc tịch Hoa Kỳ.

Trong khi Hoa Kỳ « quản lý » vùng lãnh thổ các đảo Nam Tây và kiểm soát hầu như toàn bộ bộ máy quốc gia, thì mặt phía bắc, vùng lãnh thổ mà Nhật gọi là « Vùng lãnh thổ phía Bắc » gồm các đảo Etorofu, Kunashiri, Habomai và Shikotan (tức một phần quần đảo Kuriles), thì bị Nga xâm chiếm. Xem thêm bài viết tại đây.

(Vì lý do này, hai nước Nhật và Nga, đến hôm nay vẫn chưa ký « hiệp ước hòa bình ». Trên lý thuyết, hai nước Nga và Nhật hiện thời vẫn còn trong tình trạng chiến tranh).

Sự can thiệp của Hoa Kỳ vào nội tình nước Nhật rất sâu đậm. Hiến pháp dân chủ năm 1946, lấy hứng từ hiến pháp của Anh, là do Mac Arthur áp đặt cho dân Nhật. Trong đó có các điều khoản « khó nuốt » như :

« Dân tộc Nhật từ bỏ vĩnh viễn việc chiến tranh như là một quyền chủ quyền của quốc gia cũng như việc sử dụng vũ lực như là một phương tiện để giải quyết các tranh chấp quốc tế ».

Tức HK xóa bỏ nền « quốc phòng » của Nhật. Trong chừng mực người ta có thể cho rằng Nhật là một « thuộc địa » của Hoa Kỳ. (Bởi vì, chỉ trong xứ bảo hộ mới không có quân đội riêng của quốc gia).
Hội nghị San Francisco 1951 được tổ chức trong khung cảnh chiến tranh Triều Tiên. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, Liên Xô và TQ đã ký kết hiệp ước Liên minh (14-2-1950). Hoa Kỳ cùng lúc đối đầu khối cộng sản trên hai mặt trận : Châu Âu (khối OTAN vs khối Varsovie) và Châu Á. Nhật (và Đài Loan) trở nên quan trọng đối với HK trong sách lược be bờ chống thế giới cộng sản.

Hoa Kỳ nhanh chóng ký kết với Nhật hiệp ước Hòa Bình năm 1951, đồng thời tuyên bố chấm dứt việc chiếm đóng Nhật. Quan hệ Nhật-Mỹ được nâng lên hàng « đồng minh ». Một Kết ước về « an ninh hỗ tương » cũng được hai bên ký vào năm 1951, có giá trị 10 năm. Tức cuối mỗi thập niên (60, 70, 80, 90, 10…) đều phải được ký lại.

Ở đây ta thấy Hoa Kỳ đã « xây dựng niềm tin » với dân chúng Nhật khi tuyên bố chấm dứt giai đoạn « quân quản », chiếm đóng Nhật. Điều cần nhắc là hai bên Mỹ-Nhật chỉ 6 năm trước là hai nước thù nghịch nhau, có tuyên bố chiến tranh. Cuộc chiến đã làm cho nước Mỹ thiệt hại nặng về nhân lực cũng như vật chất. Nhất là dân Mỹ không bao giờ quên trận đánh bom tại Trân Châu Cảng của không quân Nhật. Hoa Kỳ là bên chiến thắng, có đầy đủ lý do để chiếm đóng nước Nhật một cách lâu dài (như Liên Xô tại các vùng Đông Âu, Baltique, Trung Á…).

Quan hệ Nhật-Mỹ, từ kẻ thù bắn giết lẫn nhau, trở thành bè bạn đồng minh sống chết có nhau, chỉ trong 6 năm. Đó là do hai bên chia sẻ và ràng buộc lẫn nhau về quyền lợi kinh tế, chính trị (ý thức hệ tương đồng) và cách nhìn chiến lược về an ninh khu vực.

Nhưng sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại các đảo Okinawa, trong thời chiến tranh lạnh, luôn là cái cớ để phía cộng sản quốc tế xách động. Có nhiều lúc, các cuộc biểu tình phản đối của dân chúng ảnh hưởng đến tình hình an ninh nước Nhật cũng như đặt lại tính chính đáng của sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Nhật.

Chính quyền Hoa Kỳ lấy một quyết định lớn lao, nhằm tạo « niềm tin chiến lược » mới trong chính giới và quần chúng Nhật. Tháng 12 năm 1969 Hoa Kỳ tuyên bố sẽ trả lại cho Nhật quần đảo Lưu Cầu năm 1972.

Nhờ đó quan hệ « đồng minh » giữa hai bên Nhật-Mỹ khắn khít hơn bao giờ. Trong khi Nga đến nay vẫn còn chiếm giữ vùng « Lãnh thổ phía Bắc » của Nhật.

Như thế, muốn tạo « niềm tin chiến lược » không phải là chuyện đầu môi chót lưỡi, mà là những hành động cụ thể.

Điều cũng nên nói, thời gian Hoa Kỳ can thiệp vào nội tình Nhật, vỏn vẹn có 6 năm, nhưng trong khoảng thời gian này tướng Mac Arthur được dân chúng Nhật xem như là một vị « cứu tinh », chấn chỉnh lại hành chánh và bộ máy kinh tế nước Nhật, chứ không phải là một lực lượng chiếm đóng.
Điều đáng nói khác nữa, là việc HK quyết định giữ chế độ Thiên Hoàng cũng như tính mạng của Hirohito, đi ngược lại ý kiến các nước đồng minh khác, cũng là một hành vi tạo « niềm tin chiến lược » đối với người Nhật.

Việc trả lại quần đảo Okinawa là một « niềm tin chiến lược » sâu sắc, trong lúc Hoa Kỳ có thể có các quyết định khác. Như số phận các nước « chư hầu » của Nga, một số nước bị sát nhập hẵn vào Liên Bang Sô Viết, một số bị kềm tỏa trong vòng ý thức hệ.

Điều này cho ta thấy những toan tính chiến lược của Hoa Kỳ, vừa sâu xa, vừa mang tính đạo đức và nhân bản. Quan hệ « chiến lược » là quan hệ hai bên cùng có lợi.  Hoa Kỳ cần Nhật, cũng như Nhật cần Hoa Kỳ. Hai bên cùng chia sẻ lợi ích kinh tế, tương đồng về ý thức hệ chính trị, có cùng mối lo về an ninh, chiến lược.

Về ý kiến « xây dựng niềm tin chiến lược » của TT Nguyễn Tấn Dũng, nếu đối tượng là Hoa Kỳ, trong quan hệ này bên nào cần bên nào ?

VN không hề có vai trò trung tâm trong chiến lược « xoay trục » sang Châu Á của Mỹ. Nền kinh tế VN quá nhỏ, không đáng kể, đối với các nước trong vùng. VN cũng không có tài nguyên « dồi dào ». Vị trí địa lý của VN cũng không quá quan trọng.

Mọi người VN nên hiểu rằng, nếu VN « quan trọng », người Mỹ đã có thái độ khác.

Trong khi VN cần Mỹ hơn bao giờ hết để « đối trọng » với sức ép của TQ, cũng như để bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ.

Việt Nam hiện nay có thể làm gì để tạo « niềm tin chiến lược » đối với Hoa Kỳ ?

Chắc chắn không phải là « hòa bình », « tuân thủ luật pháp quốc tế », « trách nhiệm của các quốc gia »… như TT Dũng đã trình bày trong diễn văn.

Thử xét vài quan hệ « chiến lược » sau đây :

Quan hệ giữa Tây Âu và Mỹ trong thời chiến tranh lạnh là quan hệ chiến lược (đồng minh), trên căn bản quyền lợi kinh tế (hai bên cùng có lợi) và chính trị (ý thức hệ tương đồng). Tính « đồng minh » thể hiện qua chiếc dù an ninh hỗ tương OTAN.

Quan hệ giữa các xứ dầu hỏa Trung Đông và Mỹ là quan hệ chiến lược dựa trên quyền lợi kinh tế (đưa đến từ nguồn năng lượng chiến lược là dầu hỏa).

Quan hệ giữa Mỹ và Do Thái là quan hệ chiến lược (đồng minh), dựa trên vị trí địa lý quan trọng của Do Thái trong khu vực. Quan trọng vì nếu không có Do Thái, Hoa Kỳ khó có thể bảo vệ được quyền lợi của mình ở các xứ dầu hỏa Trung Đông.

Trong khi quan hệ chiến lược giữa các nước trong khối cộng sản ngày trước thường được nối kết do ý thức hệ chính trị tương đồng.

Thời gian vừa qua, Việt Nam đã tuyên bố có quan hệ « chiến lược » với các quốc gia như Pháp, Tây Ban Nha, Nga… nhưng ý nghĩa của quan hệ này không hề mang ý nghĩa « chiến lược » như các thí dụ ở trên. Thực chất nó chỉ là bang giao bình thường giữa hai nước có trao đổi về kinh tế và văn hóa. Quan hệ giữa VN với TQ và Nga, gọi là « quan hệ chiến lược toàn diện ». Mức quan hệ này cũng không thể hiểu theo ý nghĩa « quan hệ chiến lược », được nối kết bằng một kết ước an ninh hỗ tương như cách nghĩ thông thường.

Như vậy, quan hệ giữa VN và Mỹ, ý thức hệ chính trị bất tương đồng, quyền lợi kinh tế không đáng kể, vị trí địa chiến lược VN không quan trọng đối với Mỹ.

Hai bên chỉ tương đồng ở điểm có chung đối thủ là TQ. (Cũng nên tương đối hóa, vì TQ đối với HK vẫn là đối tác kinh tế trọng tâm. TQ chỉ mới bị HK xếp vào hàng đối thủ « cạnh tranh chiến lược » mà thôi).

Do đó VN cần Mỹ hơn Mỹ cần VN.

Nếu đối tượng của VN là Mỹ, VN sẽ không có hành động nào có thể xây dựng "niềm tin chiến lược" đối với Hoa Kỳ. Ngoài việc: dân chủ hóa chế độ.

2/ Quan hệ Trung-Mỹ : Quan hệ chiến lược giai đoạn. Hoa Kỳ đã tạo “niềm tin chiến lược” nào để TQ ngả về phía Hoa Kỳ để chống lại Liên Xô ? Trung Quốc thời Đặng Tiểu Bình đã xây dựng « niềm tin chiến lược » nào đối với Mỹ như thế nào để nước này tận lực giúp vốn liếng và khoa học kỹ thuật để TQ hiện đại hóa đất nước ?

Quan hệ Trung-Mỹ từ khi nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lập nước (1949) đến nay trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Lúc thì hai bên là địch thủ đối đầu « bất cộng đái thiên », lúc thì là đồng minh giai đoạn, lúc thì là đối tác kinh tế chiến lược, lúc lại trở thành đối thủ « cạnh tranh chiến lược ». Nói chung, quan hệ hai bên Trung-Mỹ là quan hệ giai đoạn. Lúc quyền lợi (kinh tế, an ninh) hai bên tương đồng, hai bên đi chung với nhau. Bằng không hai bên quay lưng lại chống nhau. Đó là điều dĩ nhiên vì hai bên bất đồng về ý thức hệ chính trị (cho dầu chiến tranh lạnh, tức chiến tranh ý thức hệ đã chấm dứt). Điểm chung của hai bên (để tiến đến quan hệ chiến lược giai đoạn) là đều xem Liên Xô là đối thủ (có chung quan điểm an ninh chiến lược). Còn không là quyền lợi kinh tế tương đồng.

Từ năm 1949 cho đến 1954, quan hệ Trung-Mỹ là quan hệ « bất cộng đái thiên ». TQ và LX ký kết hiệp ước an ninh hỗ tương, cùng đối đầu với HK trong chiến tranh Triều Tiên. Từ năm 1954 đến năm 1965, TQ đảm nhận phần lớn trọng trách « chống Mỹ » ở Châu Á, thông qua chiến tranh VN. Mặc dầu trong khảng thời gian này quan hệ hai bên LX và TQ đã có nhiều sức mẻ quan trọng. Từ 1965 đến 1972, vai trò LX quan trọng hơn trong khu vực Châu Á vì nước này phụ trách phần lớn khí tài trong chiến tranh VN.

Quan hệ Mỹ-Trung lúc này bước vào khúc rẽ quan trọng. Phía HK nhận thức được vai trò của TQ, thấy rằng không thể thực hiện kế hoạch « Việt Nam hóa chiến tranh » nếu không có sự đồng thuận của TQ. Vì thế con đường « Việt Nam hóa chiến tranh » bắt buộc phải đi qua Bắc Kinh.

Sau các cuộc đi đêm và ngoại giao « bóng bàn », HK và TQ lập lại bang giao. TQ hứa để HK rút khỏi VN bình an. Đổi lại, HK nhìn nhận Bắc Kinh là đại diện chính thức của TQ tại LHQ, thay nhà nước Quốc Dân đảng ở Đài Bắc. HK cũng hứa giúp TQ phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật.

Ở đây Hoa Kỳ tạo « niềm tin chiến lược » đối với TQ qua việc « hy sinh » đồng minh Đài Loan, nhìn nhận chính quyền Bắc Kinh là đại diện chính thống và duy nhất TQ. HK rút khỏi VN, rảnh tay thi hành các kế hoạch « tài giảm vũ khí chiến lược » và củng cố hậu phương nhằm giảm đối phó với sự bành trướng của Liên Xô ở khắp các châu lục.

Từ năm 1972 đến 1979, có thể nói quan hệ Mỹ-Trung « ấm » lên. TQ không tham dự vào các kế hoạch (xuất khẩu cách mạng) khuynh đảo ở các nước đồng minh của Mỹ.

Năm 1979 là khúc quanh quan trọng khác trong quan hệ Trung-Mỹ. Do nhu cầu hiện đại hóa đất nước, Đặng Tiểu Bình nhận thức rằng nếu không có sự đồng thuận của Mỹ, TQ sẽ không bao giờ thực hiện được việc này. Họ Đặng xây dựng « niềm tin chiến lược » với Mỹ bằng cách « cho VN một bài học ». Hành động chiến tranh này là một khẳng định của TQ đối với liên minh Việt-Sô, là một bằng chứng cho Mỹ thấy từ nay TQ đứng hẵn về phía Mỹ.

Đặng Tiểu Bình thành công. Từ 1979 cho đến ít nhất đầu thập niên 90, quan hệ Trung-Mỹ hầu như là quan hệ đồng minh. Nhờ quan hệ này mà kinh tế TQ được vực dậy, đến hôm nay đứng hàng thứ hai thế giới, đồng thời là « chủ nợ » của HK. Nên nhắc lại, TQ chiếm các đảo TS của VN dưới sự « ngó lơ » của HK. Trong lúc các công ty khai thác dầu của HK được phép TQ khai thác trên thềm lục địa của VN (vùng bãi Tư Chính, tức Vạn An Bắc theo TQ) dưới sự đồng thuận ám thị của chính quyền HK.

Đó là sơ lược về quan hệ « chiến lược giai đoạn » giữa hai bên Trung và Mỹ. Việc « xây dựng niềm tin chiến lược » không hề là đầu môi chót lưỡi mà là những hy sinh lớn lao.

Phải chăng TT Nguyễn Tấn Dũng muốn lặp lại bài học về quan hệ giữa hai bên Trung-Mỹ để đi tìm một đồng minh chiến lược giai đoạn ?

VN có thể làm được điều gì để tạo dựng niềm tin ?

Không có gì, ngoài thay đổi chế độ chính trị để có ý thức hệ tương đồng.

3/ Quan hệ chiến lược bên lề : trường hợp Đài Loan.

Có thể xem lại bài viết ở đây.

Sau khi bị HK bỏ rơi, Đài Loan bị mất ghế đại diện tại LHQ. Mối lo ngại bị Lục địa « thống nhất đất nước » ám ảnh chính giới Dân Quốc. Việc này có thể xảy ra bất kỳ lúc nào mà HK sẽ không can thiệp. Kiều dân Hoa sinh sống tại HK, rất đông đảo và giàu có, tụ họp với nhau lại bàn bạc tìm phương cách cứu vãn tình thế. Những người này làm « lobby » trong chính giới HK. Nhờ đó Thuợng viện HK thông qua một dự luật gọi là « Taiwan Relations Act », trong đó cho phép HK bán vũ khí sát thuơng để đảo quốc này có thể tự vệ.

Nhưng việc này không phải không có điều kiện. Chính quyền Dân quốc (Quốc dân đảng) phải hy sinh quyền lợi, dân chủ hóa chế độ, để tạo « niềm tin chiến lược » đối với HK.

VN hôm nay cũng muốn mua vũ khí sát thuơng của HK để tự vệ trước những gây hấn của TQ nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.

Nhưng VN có thể làm gì để HK chấp nhận việc này ?

Ta thấy, quan hệ Đài Loan và HK, nếu đảo quốc này trở về lục địa, eo biển Đài Loan sẽ trở thành « nội hải » của TQ. Đường thông thuơng từ Biển Đông lên Nhật, Đài Hàn bị cắt đứt. TQ có đường thông ra « biển lớn ». Chiến lũy be bờ của HK bị sụp đổ. Như thế Đài Loan có vị trí địa chiến lược quan trọng đối với HK.

VN có gì đem lại lợi ích cho HK, như là Đài Loan ?

Không có gì cả !

Nhưng dầu vậy, HK vẫn thích một VN tương đồng về chính trị, chống TQ, hơn là một VN ngả về TQ.
Do đó VN có thể tạo dựng « niềm tin chiến lược » với HK bằng phương cách mà Đài Loan đã làm : dân chủ hóa chế độ.

Ngoài ra không thấy phương cách nào khác.


Hay là thông điệp của TT Nguễn Tấn Dũng có hàm ý gì khác mà tác giả không giải mã được ?

lundi 16 décembre 2013

Những vấn đề Việt Nam trong năm 2013: Vấn đề góp ý sửa đổi Hiến pháp 2013.


Những vấn đề nổi cộm của Việt Nam, hay của khu vực có quan hệ đến Việt Nam, đáng nhắc trong năm 2013 gồm các vấn đề sau :

1/ Vấn đề góp ý sửa đổi Hiến pháp 2013.

2/ Tầm nhìn chiến lược của Việt Nam qua Đối thoại Sangri-La 31-5-2013 : vấn đề xây dựng niềm tin chiến lược.

3/ Vấn đề sở hữu đất đai qua vụ án Đoàn Văn Vươn 1-1-2013.

3/ Tranh chấp đá Scarborough : Ngày 22-1-2013 Philippine kiện Trung quốc ra Tòa Trọng tài theo qui định phụ lục VII của Công ước LHQ về Luật biển 1982.

4/ Vùng nhận diện phòng không (Air Defense Identification Zone - ADIZ) của Trung Quốc 23-11-2013. Giải pháp Cộng đồng Nhật-Trung chủ quyền (condominium) tại quần đảo Điếu ngư ? Là bước nối tiếp của hộ chiếu có in hình chữ U, của Luật cấm đánh cá ở Biển Đông…

5/ Tổng hợp các vấn đề về kinh tế và giáo dục.

6/ Mandela và Võ Nguyên Giáp. Vì sao nền văn minh Khổng giáo, chiếm 1/5 dân số thế giới, lại không đào tạo được một « vĩ nhân » ?

7/ Vấn đề lãnh thổ và hải phận Vịnh Bắc Việt qua hai hiệp ước biên giới 25-12-1999 và 30-12-2000 (nhân ngày tròn 15 và 14 năm).



1/ Vấn đề sửa đổi Hiến pháp.

Phong trào góp ý sửa đổi Hiến Pháp đã dấy lên những sôi nổi trong thời gian qua. Biết bao nhiêu công sức, thì giờ, trí tuệ của nhiều tầng lớp dân dã và trí thức đã đầu tư vào công cuộc góp ý này. Thiện chí và tâm huyết thì có thừa.  Vấn đề là ở VN người ta không cần thiện chí (và tâm huyết), mà người ta chỉ cần một hình thức sôi nổi bàn luận cho ra vẻ dân chủ. Từ đầu tôi đã cho rằng những đóng góp này chỉ là vô ích. Và sự việc đã xảy ra đúng như vậy. Việc « góp ý » là một sự phung phí thì giờ và trí tuệ vô cùng lớn.

Từ khi lập nước, từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cho đến Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN hôm nay, các bản Hiến pháp của VN chưa bao giờ được thể hiện như một bộ « luật mẹ », tức một bộ luật « cơ bản » làm nền cho những bộ luật khác của quốc gia. Các bản Hiến pháp của nhà nước này chỉ luôn phản ảnh « cương lĩnh xây dựng đất nước » của đảng CS trong một thời kỳ nào đó. Nội dung Hiến Pháp 2013  là nội dung « cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên XHCN » năm 2011 của đảng CSVN. (Cũng như « cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên XHCN » năm 1991 là nền tảng của Hiến pháp 1992. Ta cũng sẽ tìm thấy tương tự ở các bản Hiến pháp 1982, 1959…)

Hiến pháp của VN như thế chỉ là một « chương trình hành động », một « dự án » của một nhóm người, chứ không phải là một « giao kèo », một « khế ước »… đã được sự đồng thuận của đa số người dân trong nước về quyền công dân và các thể thức phân định quyền hành nhà nước, như đã thấy ở những đất nước « bình thường » khác. 

Một « chương trình hành động », một dự án… dầu to lớn đến mấy, thì cũng chỉ mang tính cách riêng tư, tạm thời, chứ không mang tính phổ quát và vĩnh cữu như bộ « luật nền tảng » đòi hỏi.

Nếu đóng góp trí tuệ để góp ý sửa đổi « hiến pháp » (mà tự nó chỉ là « cẩm nang » ghi rõ những điều đảng viên lãnh đạo cần phải thực hiện trong thời gian tới) trước hết là nhìn nhận không điều kiện vai trò lãnh đạo đất nước của đảng CSVN. Thảo luận, góp ý chung quanh những điều (nhỏ nhặt) ghi trong « hiến pháp », là thảo luận các đảng viên CSVN sẽ thực hiện « dự án » đó như thế nào ?

Việc góp ý sửa đổi hiến pháp như vậy chỉ nói về « phần ngọn » chứ không nói về phần gốc. Vấn đề của mọi vấn đề là « quyền lực nhà nước » được phân bổ như thế nào và các « quyền công dân » được xác định ra sao.

Góp ý như vậy thì góp làm chi cho mất thì giờ ?

Một số điều cần phải nói là VN hiện nay là một chế độ tân phong kiến, con vua thì lại làm vua.
Sự khác biệt giữa thể chế « cộng hòa » và « quân chủ » là chủ quyền lãnh thổ thuộc về ai ? Chủ quyền lãnh thổ thuộc về toàn dân là chế độ cộng hòa. Lãnh thổ thuộc sở hữu của vị chủ tể (vua) là chế độ phong kiến quân quyền.

Hiến pháp của VN không qui định một cách trắng trợn chủ quyền lãnh thổ thuộc về đảng, nhưng thực chất là chỉ có đảng mới có quyền ban bố cho người (hay tổ chức, tập đoàn kinh tế) nào đó có quyền sử dụng đất. Cũng như vua chúa ngày xưa ở các xứ Châu Âu, đất đai đều thuộc về họ. Chế độ này kiểm soát người dân, và người dân phải trung thành với họ, vì họ ban bố ân sủng cho phép sử dụng đất để canh tác. Ở Việt Nam, chủ quyền đất đai thuộc về toàn dân nhưng nhà nước có thẩm quyền tối cao ban bố cho ai đó quyền sử dụng đất đai. Mà nhà nước là ai nếu không phải là đảng ? Như vậy chế độ hiện nay không phải là « phong kiến » thì là gì ? Mà chế độ này còn tệ hơn xã hội phong kiến VN ngày xưa. Chế độ phong kiến VN ngày xưa nhìn nhận sở hữu đất đai của người dân (tư điền). Các phần đất gọi là « hương hỏa » (lợi tức dùng vào việc nhang đèn thờ cúng tổ tiên) hay « bản bức tư điền » (tức đất hoang tự khai khẩn) thì không được truất hữu. Nhà nước CSVN hôm nay có thể truất quyền sử dụng đất của bất kỳ người dân nào, bất kỳ ở đâu và lúc nào. Tức là chế độ này còn khắc khe hơn so với chế độ phong kiến ngày xưa.

Điều cần thiết khác cần phải nói là ý nghĩa ngôn từ của « hệ thống chính trị ».

Người ta hay nói về « nhà nước », về « dân chủ » để tranh luận với các lý thuyến gia CSVN. Điều này sẽ hoài công nếu ta không nói cùng một « ngôn ngữ » với họ.

Nói « ngôn ngữ » không phải là điều phóng đại.

Thử đưa một thí dụ, hai hệ thống số « thập phân – décimal » và « thập lục phân – hexadécimal », để so sánh với hai hệ thống chính trị « dân chủ tự do » và « dân chủ mác xít ».

Trong hệ thống thập phân, ta có 9+9=18 nhưng trong hệ thập lục phân 9+9=12. Thí dụ khác, thập phân 10+10=20 ; thập lục phân A+A=14, trong đó A tương ứng với 10.

Như thế, khi ta nói về « dân chủ », điều cần thiết là phải biết dân chủ đó thuộc hệ thống chính trị nào. Nếu không phân biệt, cãi nhau đến chết cũng không đi đến đâu.

Tương tự khi ta nói đến “nhà nước”.

Engel nói : « nhà nước chỉ mà một nhóm người có vũ trang. »

Mác quan niệm : « nhà nước là một cơ quan đặc biệt được sinh ra trong một thời gian nhất định của lịch sử phát triển nhân loại và sẽ bị đào thải trong quá trình phát triển này. Nó được khai sinh do sự phân chia giai cấp trong xã hội và sẽ biến mất trong sự phân chia này. Nó được khai sinh như là một công cụ của giai cấp nhằm duy trì sự thống trị xã hội của giai cấp và nó sẽ mất đi cùng với giai cấp đó. » Mục đích cuối cùng của chủ nghĩa CS là thủ tiêu mọi hình thức « nhà nước ».

Nhà nước này hoàn toàn khác với “nhà nước” ở các quốc gia “bình thường” khác trên thế giới, phải không ?


Vì thế, Hiến pháp này không thể sửa mà phải thay thế.  

mercredi 11 décembre 2013

Nhân việc sinh viên Nguyễn Phương Uyên bị đuổi học.

Chủ nghĩa « phân biệt chủng tộc – apartheid »  ở Nam Phi áp dụng trên thực tế xem ra không khác nhiều với chính sách phân biệt thành phần chính trị, tức « chủ nghĩa lý lịch », được áp dụng tại VN từ 1954 cho đến nay.

Apartheid -  bắt nguồn từ chữ « à part », có nghĩa là « riêng ra, riêng biệt ». Nền chính trị « apartheid » chủ vào việc phát triển từng phần dựa trên yếu tố dân tộc. Nếu ta thay đổi yếu tố « chủng tộc » bằng yếu tố « giai cấp » hay « lý lịch », nguồn gốc chính trị, VN quả nhiên là một nước áp dụng chế độ « lý lịch », phân biệt con người theo tiêu chuẩn nguồn gốc chính trị.

Nếu ở Nam Phi, một nhúm nhỏ dân da trắng nắm toàn quyền về kinh tế và chính trị,  ở VN, một nhúm nhỏ người, chưa tới 4 triệu, cũng nắm toàn bộ không chia sẻ bộ máy quyền lực quốc gia cũng như mạng lưới kinh tế. Mọi tư tưởng « khác », ý kiến khác… đều bị trù dập không nương tay.

Để ý, miền Nam sau 1975, không được đầu tư đúng mức về kinh tế, giáo dục, xã hội, hạ tầng cơ sở… như ở miền Bắc. Mặc dầu miền Nam cung ứng trên 70% ngân sách quốc gia. (Trên 30% ngân sách quốc gia là dầu khí lấy từ các mỏ miền Nam. Hàng năm kiều hối trên 10 tỉ đô la cũng do dân miền Nam gởi về. Ngoài ra vựa lúa miền Nam vẫn là xương sống kinh tế cho cả nước…). Trong chừng mực, nó thể hiện sự trả thù tập thể, xét « lý lịch » tập thể.  

Chính sách giáo dục ở VN và Nam Phi (trong thời kỳ apartheid) cũng có cùng mục đích : ưu tiên đào tạo hạt giống được « tuyển chọn » để lớp người này trở thành « công chức » nắm mọi guồng máy của chế độ. Thành phần còn lại, hoặc bị bỏ rơi bên lề, hoặc trở nên thầy không ra thầy, thợ không ra thợ. Điểm chung về giáo dục của hai chế độ này là sự bất bao dung đối với thành phần khác chính kiến. Trong khi ở các nước tiên tiến, mọi đứa trẻ đều có cơ hội như nhau trong học đường.

Sinh viên Nguyễn Phương Uyên, cũng như hàng chục triệu tranh thiếu niên VN khác, là nạn nhân của chính sách « lý lịch ». Nhưng Nguyễn Phương Uyên lại là một nạn nhân tiêu biểu. Không ai biết đến những nạn nhân khác, vì hình thức « phân biệt » về chính trị cực kỳ tinh vi, không « sổ sàng » như phân biệt về « chủng tộc », cho đến chính nạn nhân cũng không biết mình là nạn nhân.

Sinh viên Nguyễn Phương Uyên là nạn nhân của sự trả thù trực tiếp của những người lãnh đạo nhà trường, nơi mà sinh viên này đi học. Chỉ vì sinh viên này bày tỏ chính kiến khác với luồng tư tưởng chính trị chủ đạo.

Đạo đức của một người làm mô phạm là tạo mọi điều kiện để những đứa học trò thành công trong việc học. Mà mục tiêu của việc « dạy học » là nhằm đào tạo con người. Trong cái « học » có bao hàm chính trị. Dạy chính trị là dạy cho học trò có tư duy, có nhận thức về đời sống và tư tưởng chính trị chứ không phải bóp chết chính kiến của học trò. Dạy như thế thì bao giờ VN có được một nhà tư tưởng lớn để soi mặt với thế giới ?  

Một đưa học trò bị đuổi học, là một người « chưa thành người », sẽ là một gánh nặng, nếu không nói là một đe dọa cho xã hội. Dĩ nhiên nó cản trở cho sự tiến bộ, sự phát triển của đất nước. Tội của người có trách nhiệm về giáo dục vì vậy sẽ rất là lớn.

Nhưng nếu xét chi li trên từng mặt, những thanh niên nam nữ được « dạy dỗ » đầy đủ, thành công trong học đường, là do cố gắng của bản thân, do sự giúp đỡ hết mức của gia đình, của những thày cô có lương tâm dạy dỗ. Sự thành công trong học đường của họ không hề đến từ chính sách, từ guồng máy giáo dục và đào tạo của nhà nước.

Nhưng từ thành công trong học đường đến thành công trong xã hội là một hố sâu thăm thẳm.

Có bao nhiêu người tốt nghiệp đại học tìm được việc làm tương xứng ? Không thấy có thống kê nào làm việc này. Con số thực tế chắc là chẳng bao nhiêu. Sự phát triển kinh tế của VN cho thấy việc đó. Những người có được việc làm, nếu không « bôi trơn », thì là thành phần con ông cháu cha, thành phần « lý lịch » trong sáng. Những công việc này phần lớn là « công chức », cán bộ trong các cơ quan nhà nước hay trong các xí nghiệp quốc doanh, chứ không phải là việc làm phù hợp với kết quả sự học. Các xí nghiệp có vốn nước ngoài, chuyên gia phần lớn được đem đến từ các nước khác.

Mô thức phát triển quốc gia thể hiện qua việc giáo dục. VN phát triển theo mô thức nào ?

Theo Ấn Độ ? Sinh viên nước này luôn được thế giới đánh giá cao. Khi tốt nghiệp, một số được các xí nghiệp nước ngoài tuyển chọn. Kinh tế Ấn Độ phát triển xem ra bền vững hơn nhiều nước đang mở mang khác, vì sự giáo dục cung ứng đủ nhân sự cho các mặt về khoa học, kỹ nghệ, thuơng mại… làm đầu tàu phát triển đất nước.

Hay theo Phi ? Người ta ca ngợi đức tính chịu khó công nhân Phi qua các công việc phục vụ khách sạn, công nhân phục dịch trên các tàu thủy, làm con ở v.v… Số kiều hối của Phi còn lớn hơn VN. Nhưng Phi vẫn chật vật hàng trăm năm nay trên đường phát triển, mặc dầu đất nước tương đối hòa bình.

VN không theo mô hình nào. VN đào tạo con người theo mô hình XHCN. Nhưng ở các nước XHCN đích thực, người ta đào tạo “công chức” nhằm giải quyết công ăn việc làm. Nhưng nó là gánh nặng ngàn cân cho ngân sách quốc gia. Còn công chức VN là cán bộ đảng viên, đào tạo nhằm bảo vệ chế độ. Sinh viên VN ra trường, thầy không ra thầy, thợ không ra thợ. Các xí nghiệp lớn nước ngoài người ta không tuyển sinh viên VN mà tuyển sinh viên Ấn Độ. Các nước người ta lấy nhân công VN là vì nhân công này rẻ mạt và sẵn sàng làm những việc mà dân bản xứ ghê tởm, không làm.

Vì vậy sinh viên Nguyễn Phương Uyên bị « đuổi học » cũng như chuyện « tái ông thất mã ». Nan truy họa phúc phải không ? Nếu ta nhận thức rằng chính trị VN không khác chính trị của Nam Phi thời apartheid. « Cái học ngày nay đã hỏng rồi ! ». Việc đuổi học sinh viên Nguyễn Phương Uyên chỉ làm nổi bật chủ nghĩa « trả thù » mà thôi. Chiến tranh đã qua bao nhiêu năm mà tư tưởng « địch-ta » vẫn chưa xóa được, thì làm sao mà tiến bộ ?.

Những người còn ưu tư đến tiền đồ đất nước, phải làm gì để thay đổi chế độ « phân biệt lý lịch » nhằm phát triển đồng bộ con người và đất nước Việt Nam ?

Hãy xem tấm gương Mendela : Phải « bao dung », phải « hòa giải » thường trực với tội ác. Phải thiết lập công lý cho mọi thành phần trong xã hội.

Nói thì dễ nhưng làm không dễ, nhất là một nước như VN, một nước âm hưởng nặng nề văn minh khổng giáo và giáo điều cộng sản.

Nền văn minh khổng giáo đề cao sự « trả thù ». « Quân tử ba năm báo thù không muộn ». Quân tử, con người mẫu mực trong xã hội khổng giáo, phải biết « trả thù ». Thử đọc các truyện kiếm hiệp Tàu, ta thấy hầu hết các nhân vật chánh cuối cùng học được võ công cao cường, để « báo thù » cho cha mẹ, cho sư phụ… Trả thù là mục tiêu cuối cùng. Trả thù trở thành « tiêu chuẩn », một giá trị của nền văn minh này.

Tương tự, chủ nghĩa cộng sản cũng đề cao những máu me, chém giết, tiêu diệt, như « tiêu diệt giai cấp », « thủ tiêu giai cấp »… Ai giết nhiều, làm đổ máu nhiều « giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ », là trở thành « anh hùng ».

Việt Nam tiếp nhận cùng lúc, một cách sâu sắc, hai luồng văn hóa này. Thù chồng chất lên oán thù. Máu xương chồng chất lên máu xương. Không một công trình quốc gia nào được bảo tồn, hay tiếp nối xây dựng, từ chế độ này chuyển qua chế độ khác. Đập phá là để « trả thù ». (VN chê « thằng » khờ-me là « mọi », nhưng xét lại thằng mọi này nó hơn VN 1000 lần. Đền đài của nó xây dựng từ đời này qua đời khác, liên tục trong 600 năm, mới có cái Ankor Vat hiện nay. VN đập phá hết, không có cái cóc khô gì !)

Các ngôn từ « bao dung », « hòa giải » chỉ nghe ở đâu môi chót lưỡi.

Làm sao có thể « hòa giải » và « bao dung » với kẻ đã gây tang tóc, đổ vỡ cho gia đình, cho đời sống của mình ?

Nhưng tấm gương sáng chói của Mandela đã cho ta thấy con đường.

Bao dung và hòa giải là một vấn đề chính trị chứ không phải là tôn giáo.

Lớp trẻ Việt Nam, những sinh viên như Nguyễn Phương Uyên, hãy thử dấn thân theo con đường của Mandela đã đi. Đông phương khổng giáo chưa đào tạo được một vĩ nhân nào của thế giới. Ta đã thấy Gandhi ở Ấn Độ, Mandela ở Châu phi... Chưa thấy người nào có tầm vóc ở vùng văn hóa chiếm 1/5 dân số nhân loại, trong đó có Việt Nam.


Hãy thử đi. Đó là con đường cứu nước.

dimanche 8 décembre 2013

Về tuyên bố « Vùng nhận diện phòng không trong Biển Hoa Đông » của Trung Quốc.

Hoa Kỳ, Nhật, Nam Hàn, Úc và Cộng đồng Châu Âu lần lượt lên tiếng phản đối « Vùng nhận diện phòng không » (Air Defense Identification Zone - ADIZ) của Trung Quốc vừa công bố hôm 23-11-2013.

ADIZ Trung Quốc - nguồn Tân Hoa Xã

Bản đồ vùng « nhận diện phòng không » mà TQ vừa tuyên bố.

Tuyên bố của Trung Quốc mang hình thức một « tuyên bố đơn phương », liên quan đến nội dung của các điều ước cũng như tập quán quốc tế. Các công ước liên quan là Công ước Quốc tế về Hàng không Dân sự (còn gọi là công ước Chicago 1944) và Công ước về Luật Biển 1982.

Điều 1 của Công ước Chicago 1944 qui định vùng bầu trời phía trên lãnh thổ, lãnh hải và vùng tiếp cận lãnh hải của một quốc gia thì thuộc chủ quyền của quốc gia đó. Tức là trong vòm trời đó, quốc gia có đầy đủ thẩm quyền quốc gia đối với người hay các phương tiện qua lại.

Theo tập quán quốc tế, có từ thời chiến tranh lạnh, các quốc gia ven biển có thể mở rộng vùng trời của nước mình, gọi là « vùng nhận diện phòng không ». Các nước Hoa Kỳ, Nhật, Pháp… đều có vùng nhận diện phòng không mở ra ít nhất là 200 hải lý. Mục tiêu của việc thiết lập vùng nhận diện phòng không là nhằm bảo vệ an ninh quốc gia.

Theo Luật Biển 1982, quốc gia ven biển có các « quyền thuộc chủ quyền » về kinh tế trong vùng biển rộng đến 200 hải lý (tính từ đường cơ bản). Nhưng trên bầu trời thuộc vùng EEZ thì Quốc tế công pháp không có qui định nào xác định thẩm quyền (hay đặc quyền) cho quốc gia ven biển.

Việc thiết lập vùng « nhận diện phòng không » ngoài phạm vi lãnh thổ của các quốc gia, dầu không được qui định bởi một công ước quốc tế, nhưng được các nước ám thị chấp nhận và tôn trọng, lâu dài thông lệ trở thành « tập quán quốc tế », có giá trị bắt buộc như « luật ».

Vùng nhận diện phòng không của Trung quốc vừa mới tuyên bố thoạt tiên phù hợp với công pháp và tập quán quốc tế, nếu ta so sánh bản đồ vùng ADIZ của các nước đối với vùng ADIZ của TQ vừa công bố.

ADIZ USA-Canada

Hình trên: bản đồ vùng nhận diện phòng không của Hoa Kỳ và Canada.

Vùng chồng lấn ADIZ japan-china-korea

Hình trên: Chồng lấn vùng ADIZ giữa các nước trong khu vực.

Nhưng nội dung điều 3 của Tuyên bố đã đi ngược lại tinh thần Luật cũng như tập quán quốc tế :

« Third, aircraft flying in the East China Sea Air Defense Identification Zone should follow the instructions of the administrative organ of the East China Sea Air Defense Identification Zone or the unit authorized by the organ. China's armed forces will adopt defensive emergency measures to respond to aircraft that do not cooperate in the identification or refuse to follow the instructions.”

Tạm dịch : Thứ ba, phi cơ bay trong Vùng nhận diện phòng không Biển Hoa đông phải tuân theo những chỉ thị của cơ quan hữu trách. Lực lượng vũ trang Trung Quốc sẽ áp dụng các biện pháp phòng thủ khẩn cấp thích ứng đối với phi cơ không hợp tác hoặc từ chối tuân thủ các chỉ thị này.

Theo tập quán quốc tế, trường hợp vùng ADIZ của Hoa Kỳ, nước này cho phép các phi cơ dân sự đi qua vùng ADIZ của mình mà không cần thông báo, nếu chuyến bay không đi vào lãnh thổ nước này. Trong thời chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ cũng cho phép phi cơ quân sự của Liên Xô bay qua vùng ADIZ của Alaska mà không cần thông báo. Cần nhắc lại, bầu trời phía trên vùng kinh tế độc quyền (EEZ) của quốc gia không thuộc chủ quyền của quốc gia. Trong vùng biển EEZ, quốc gia chỉ được hưởng (độc quyền) một số quyền về kinh tế, chứ không có “chủ quyền” ở vùng không gian này. TQ đã đi ngược lại tập quán quốc tế khi áp đặt một điều “luật quốc gia”, chỉ có thể áp dụng trong lãnh thổ quốc gia, là “áp dụng các biện pháp phòng thủ khẩn cấp”, lên trên một vùng không thuộc chủ quyền của TQ.

ADIZ Alaska

Hình trên: vùng nhận diện phòng không Alaska.

Việc “áp dụng các biện pháp phòng thủ khẩn cấp” cho các phi cơ bay qua vùng này (mà không vào lãnh thổ của TQ) không chỉ xâm phạm quyền tự do thông lưu trên bầu trời, theo qui định của Công ước Chicago 1944, mà còn đe dọa đến an ninh của hành khách trong phi cơ. Tuyên bố của TQ, vùng liên quan đến quần đảo Điếu Ngư, làm thay đổi “hiện trạng”, đi ngược lại nội dung của Hiến chương LHQ ở điều 1.1 và điều 2.3.

Sự phản đối của các nước Hoa Kỳ, Nhật, Nam Hàn (kể cả Đài Loan) và Châu Âu vì vậy là hợp lý.

Sau khi ra tuyên bố, Trung Quốc có “bảo vệ” được vùng “nhận diện phòng không trong biển Hoa Đông” hay không là tùy thuộc thái độ của các cường quốc cũng như sự quyết tâm và khả năng quốc phòng của Trung quốc.

Vừa khi TQ Tuyên bố vùng ADIZ của họ, HK phái hai chiếc pháo đài bay B52 vào vùng này để “bắt mạch” thái độ của TQ. Theo đường bay của hai chiếc B52 trên bản đồ…, ta thấy hai chiếc pháo đài bay này quay về trước khi vào không phận của quần đảo Điếu Ngư (Senkaku). Điều này cho thấy lập trường của HQ chưa dứt khoát ở việc nhìn nhận chủ quyền của nước nào ở quần đảo này. Người ta chỉ biết rõ rệt, quyết tâm của TQ cũng như lập trường của HK về Điếu Ngư, nếu những phi cơ quân sự của HK bay vào không phận của quần đảo này.

ADIZ chine-japon-corée du sud

Hình trên : đường bay của hai chiến B52 (AFP).

Dầu vậy, Hoa Kỳ khuyến cáo các hãng hàng không của họ nên tuân thủ qui định về ADIZ của TQ để tránh rủi ro.
Trong khi phía Nhật cương quyết phủ nhận mọi tuyên bố của TQ.

Từ lâu, trên biển, hai bên Trung-Nhật đã có những tranh chấp về chồng lấn thềm lục địa, tranh chấp về chủ quyền quần đảo Điếu Ngư. Tàu hải giám hai bên thường xuyên “vờn nhau” trong lãnh hải các đảo Điếu Ngư. Nhưng các cọ sát của hai bên vẫn còn giới hạn trong lãnh vực thuộc quyền của cảnh sát, tức ngoài thẩm quyền của quân đội. Nhưng vùng nhận diện phòng không tại quần đảo Điếu Ngư có thể đưa đến nhiều “rủi ro” khó lường, nếu cả hai bên quyết tâm gởi chiến đấu cơ lên để bảo vệ không phận các đảo Điếu Ngư, mà cả hai đều dành chủ quyền.

Khả năng quốc phòng của TQ, hải quân và không quân, có thể ép buộc các nước khác tuân thủ tuyên bố của họ, ngoài Hoa Kỳ và Nhật.

Ba nước HK, TQ và Nhật không chỉ là các cường quốc về quân sự, mà còn là ba đại cường kinh tế dẫn đầu thế giới. Quan hệ kinh tế giữa các bên quá lớn. Một sự đụng chạm quân sự xảy ra giữa hai bên Trung-Nhật, là trò chơi “zero sum game”, hai bên sẽ cùng khánh tận.

Tuyên bố của các lãnh đạo TQ, trước đây là Hồ Cẩm Đào, vừa qua là Tập Cận Bình, cho thấy quyết tâm của lãnh đạo CSTQ sẽ sử dụng vũ lực để giải quyết các vấn đề tranh chấp. Câu hỏi là đã đến lúc hay chưa? Ngân sách quốc phòng của TQ trong năm tới sẽ lên đến là 180 tỉ đô. Tỉ số gia tăng ngân sách quốc phòng, từ hai thập niên, luôn ở khoảng 10%. Sẽ hợp lý để kết luận rằng Tuyên bố của TQ chỉ là một bước nối tiếp tiệm tiến, một logic về lãnh thổ trong sách lược “không gian sinh tồn” của TQ đã có từ rất lâu.

Vấn đề là TQ có khả năng ép buộc các nước tôn trọng tuyên bố của họ hay không ?

Nếu còn một ngoại lệ (như HK và Nhật), mà điều này có nhiều sác xuất xảy ra, TQ không chỉ sẽ mất thể diện trước quốc tế, mà đảng CSTQ sẽ mất đi tính chính thống để lãnh đạo đất nước (đây mới là điều quan trọng).

Những khó khăn nội tại của TQ hiện nay (hơn 80.000 cuộc biểu tình, phản đối trong năm qua), khởi từ sự bất mãn do chênh lệch quá lớn về giàu nghèo và bất công xã hội, hậu quả chính sách phát triển kinh tế “mèo trắng mèo đen” từ hơn ba thập niên, hay do mâu thuẩn chủng tộc, có thể tạo những khủng hoảng nhất thời. Đại hội đảng CSTQ vừa qua đã có cương lĩnh cải cách về kinh tế, xã hội… nhằm giải quyết khủng hoảng này trong lâu dài.

Sự bất mãn của người dân TQ sẽ bùng nổ lớn, lan rộng, mà đảng CSTQ khó giải quyết, nếu TQ bị mất thể diện trước quốc tế.

Cốt lõi vấn đề là “chủ quyền”. Nay thêm vào “thể diện quốc gia”. Cả hai đều là yếu huyệt của những dân tộc có truyền thống “dân tộc chủ nghĩa” lâu đời như Nhật, Trung Quốc.

Đường hướng giải quyết để tránh xung đột Trung-Nhật, như HK vừa khuyến cáo, các bên thiết lập đường dây nóng, để tránh rủi ro. Trong khi phía Nam Hàn cũng tuyên bố mở rộng vùng nhận diện phòng không của mình.

Việc thiết lập “đường dây nóng” sẽ không đủ. Hai bên đều là cường quốc về kinh tế và quân sự. Nhất là cả hai đều nghĩ rằng mình có khả năng chế ngự địch thủ. Trong khi HK còn có ràng buộc quốc phòng với Nhật. Câu hỏi đặt ra là HK (và các chính trị gia bồ câu trong chính trường Nhật) có sẵn sàng cho một cuộc chiến hay không ?

Chiến tranh là một cuộc phiêu lưu bất định. Trong khi khủng hoảng có thể giải tỏa khi mà chủ quyền các đảo Senkaku/Điếu Ngư được giải quyết. Vấn đề là giải quyết thế nào ?

Trong nhất thời, hai bên có thể thỏa thuận về một vùng “cấm bay” trong không phận các đảo Senkaku/Điếu Ngư, để tránh xung đột.

Giải pháp lâu dài, hoặc phải đưa ra trọng tài phân xử nước nào có chủ quyền tại các đảo Senkaku/Điếu Ngư. Hoặc hai bên cùng nhượng bộ, chấp nhận giải pháp “cộng đồng chủ quyền - condominium” ở các đảo tranh chấp. Việc này sẽ thúc đẩy việc phân định biên giới trên biển cũng như ranh giới thềm lục địa giữa các bên.

Nút chặn từ nhiều thập niên nay cho việc đàm phán hai bên Nhật-Trung về biên giới trên biển là chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.

Về khu vực Biển Đông, TQ có thể tuyên bố “vùng nhận diện phòng không” hay không ?

Trong khu vực Biển Đông, từ năm 2008 đến nay phía TQ đã đơn phương ra các bộ Luật, những tuyên bố cũng như biện pháp về Biển Đông, áp đặt các quốc gia trong vùng tuân thủ các quyết định của họ. Như Luật của tỉnh Hải Nam về an ninh và biên giới (cho phép tàu hải giám của tỉnh này khám xét các tàu bè các nước trong khu vực biển của các nước khác (VN và Phi), Luật bảo vệ hải đảo (trong đó có các đảo HS và TS của VN), Luật cấm đánh cá (trong vùng biển của VN và Phi)... Đồng thời họ cho tàu hải giám quấy nhiễu tàu bè nghiên cứu khoa học của VN (vụ cắt cáp tàu Bình Minh II) đang hoạt động ở cách xa Hải Nam hàng ngàn cây số, cho đấu thầu khai thác thềm lục địa ở các khu vực chỉ cách bờ biển VN hơn 100 hải lý, cho tàu hải giám phong tỏa và chiếm bãi Scarborough, cho tàu hải giám phong tỏa bãi Cỏ Rong…

Đây là các động thái gây hấn, có thể gây chiến tranh (nếu VN và Phi có một sức mạnh ngang hàng), vì xâm phạm đến chủ quyền lãnh thổ của nước khác.

Các động thái này đều nằm trong khả năng của hải quân (và hải giám) Trung Quốc. Bằng sức mạnh quân sự, TQ áp đặt VN và Phi tuân thủ luật lệ của họ.

Nhưng việc tuyên bố “vùng nhận diện phòng không” bao trùm lên toàn biển Đông (theo bản đồ hình chữ U), đối với TQ hiện nay, là điều bất khả thi. TQ vừa không có khả năng phát hiện, vừa không có khả năng ngăn chặn các phi cơ đi vào khu vực biển Trường Sa. Hiện nay, TQ không có các dàn ra đa trải rộng để kiểm soát không phận toàn vùng biển theo bản đồ chữ U. Trong khi phi cơ ở các căn cứ không quân đóng tại Hải Nam hay Quảng Đông, chỉ có khả năng phòng vệ đến đá Chữ Thập hay bãi Scarborough mà thôi.Đội tàu chiến cùng chiếc hàng không mẫu hạm Liêu Ninh hiện nay có chuyến du hành xuống Biển Đông, nhưng việc chuyển dịch này mang tính nhất thời, không bảo đảm sự hiện diện thường trực của không quân TQ, như là hạm đội của Hoa Kỳ.

TQ sẽ không dại dột tuyên bố điều gì đó trước quốc tế mà không đảm trách được. Trường hợp của Điếu Ngư, nếu phi cơ của Nhật, hay của HK, bay qua không phận các đảo này mà không quân TQ án binh bất động, sẽ làm mất đi uy tín của TQ trước trường quốc tế. Huống chi đối với các nước nhỏ như VN, Phi, Mã Lai… trong vùng.

Vì vậy, nếu phía TQ có ý định tuyên bố vùng nhận diện phòng không tại Biển Đông, tuyên bố này sẽ chỉ giới hạn, như giới hạn của vùng cấm đánh cá, ở vĩ tuyến 12° trở về phía bắc mà thôi.

mercredi 13 novembre 2013

Bài học nào cho VN trong tranh chấp Thái-Miên về ngôi đền Preah Vihear ?


Tòa án Công lý quốc tế (CIJ - Cour International de Jutice) vừa mới ra phán quyết hôm nay (11-11-2013) về việc giải thích lại kết quả vụ phân xử ngày 15-6-1962 « chủ quyền ngôi đền Preah Vihear » theo yêu cầu của Cambodge. Phía Cambodge chính thức đệ đơn ngày 28-4-2011 yêu cầu Tòa giải thích lại nội dung của phán quyết 1962. Nguyên nhân phía Thái Lan cho rằng phán quyết 1962 chỉ nói đến chủ quyền của ngôi đền mà không nói đến chủ quyền vùng đất chung quanh (diện tích khoảng 4,5 km²).

Phán quyết ngày 11-11-2013 của CIJ không gây ngạc nhiên : mỏm đồi mà ngôi đền Préah Vihear tọa lạc thuộc chủ quyền của Cambodge và phía Thái phải rút hết mọi lực lượng vũ trang ra khỏi khu vực. Đúng như nội dung của phán quyết tháng 6 năm 1962 : « đường biên giới là đường xác định trên bản đồ và sẽ không cần thiết để tìm hiểu là đường biên giới này có phù hợp với đường phân thủy hay không… Tòa phán thắng kiện cho bên Cambodge về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear. »

Bài học trễ tràng cho phía Việt Nam : áp dụng cho trường hợp thác Bản Giốc.

Ngôi đền Préah Vihear, theo nội dung văn bản, tọa lạc trên đường biên giới, trong khi trên bản đồ thì ngôi đền này thuộc Cambodge. Tương tự, thác Bản Giốc, theo văn bản, tọa trên đường biên giới, nhưng theo bản đồ thì nó thuộc VN. Yếu tố quyết định trong phán quyết CIJ 1962, Tòa phán rằng ngôi đền thuộc chủ quyền của Cambodge, vì nước này đã thể hiện các hành vi thuộc thẩm quyền quốc gia (effectivité), liên tục trong một thời gian dài tại ngôi đền này không có sự phản đối của Thái Lan. Trong khi thác Bản Giốc, chính quyền bảo hộ Pháp đã thực thi nhiều hành vi thể hiện chủ quyền tại thác này, một cách liên tục và hòa bình trong một thời gian rất dài, không gặp sự phản đối nào từ phía TQ. Các hành vi tiêu biểu : cho quân đội đi tuần chung quanh thác (bên này và bên kia thác), làm các cuộc nghiên cứu địa chất, các dự án về du lịch… Sau khi VNDCCH được thành hình, nhà cầm quyền này cũng tiếp nối quản lý thác này cũng không gặp sự phản đối nào của TQ.

Quyết định chia thác Bản Giốc và cồn Pò Thong với TQ theo HUBG 1999, phía VN được phần ít, là một thiệt thòi lớn cho phía VN. Trong bất kỳ tranh chấp biên giới nào, các yếu tố tương quan sức mạnh, công pháp quốc tế, lịch sử và chính trị luôn là các yếu tố quyết định. Phe yếu thế luôn tìm cách giải quyết tranh chấp bằng phương tiện pháp lý và ngoại giao trong khi phe mạnh thì muốn dùng vũ lực. Phía Thái Lan đã nhiều lần dùng vũ lực với Cambodge để hy vọng giải quyết tranh chấp biên giới, trong khi phía Cambodge lại khôn khéo khai thác các mặt ngoại giao và pháp lý để giải quyết. Bài viết dưới đây cho thấy điều đó.

Việc phân định lại biên giới Việt-Trung, đối với quần chúng VN, là một vấn đề « bí mật ». Nhân dân VN không hề biết việc thuơng lượng xảy ra như thế nào, ai chịu trách nhiệm ? Kết quả hiển nhiên, yếu tố chính trị và áp lực phía TQ đã là các yếu tố quyết định cho vấn đề phân định. Nếu việc này áp dụng tương tự cho việc phân định Biển Đông, ta có thể đoán trước kết quả.

Bài viết này nhằm kể lại lịch sử các diễn biến tranh chấp hai nước Thái Lan và Cambodge về ngôi đền Préah Vihear đồng thời nội dung phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế 15-6-1962. Hy vọng phía VN, nhà cầm quyền cũng như giới học giả, lấy ra kinh nghiệm về ngoại giao và pháp lý của Cambodge để áp dụng trong tương lai cho việc tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đồng thời phân định Biển Đông.


Lược sử tranh chấp :

Tranh chấp giữa hai nước Thái Lan và Cambodge về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear bắt đầu từ sau Thế chiến thứ II. Đây là một tranh chấp mang nhiều « kịch tính », bắt nguồn từ văn hóa, lịch sử của hai nước. Thời gian gần đây, tranh chấp yếu tố « dân tộc chủ nghĩa » các đảng phái hai bên lợi dụng, tình hình chính trị tại Thái Lan.

Sau khi độc lập năm 1953, nhận thấy phía Thái Lan vẫn còn chiếm đóng khu vực ngôi đền Preah Vihear, mặc dầu theo các cuộc phân định Pháp-Thái trong quá khứ đã để khu vực ngôi đền thuộc về Kampuchia, ông hoàng Sihanouk lên tiếng qua các văn kiện ngoại giao yêu cầu Thái trả lại chủ quyền ngôi đền cho Cambodge. Trước đó, năm 1949, nước Pháp nhân danh là nước bảo hộ, cũng đã hai lần lên tiếng yêu cầu Thái trả lại ngôi đền nhưng không có kết quả. Do đó Sihanouk đưa vấn đề tranh chấp, trước hết ra ONU, nhưng tại đây tuyên bố không nhận phân giải những tranh chấp về chủ quyền, biên giới ; do đó phải đưa qua Tòa Án Quốc Tế CIJ (Cour Internationale de Justice – La Haye). Nội vụ tranh chấp được phân xử, theo phán quyết CIJ ngày 15-6-1962, ngôi đền thuộc về Kampuchia, đúng theo đường biên giới vẽ trên bản đồ đính kèm các công ước về biên giới Pháp-Thái 23-3-1907. Tuy nhiên, phía Thái Lan, quần chúng vẫn không « tiêu hóa » được quyết định này. Chủ quyền ngôi đền, cũng như chủ quyền các tỉnh phía hữu ngạn sông Cửu Long như Battambang, Sisophon, Siemreap…, thỉnh thoảng được các đảng phái chính trị hay các nhân vật thuộc công chúng khơi dậy, cho rằng theo lịch sử, chúng thuộc về Thái Lan.

Tranh chấp khu vực ngôi đền Preah Vihear đến từ nhiều lý do : văn hóa, lịch sử, tâm lý quần chúng và tình hình chính trị tại Thái Lan. Việc tranh chấp hiện nay đã vượt lên mức độ báo động vì hai bên Thái-Kampuchia đã sử dụng vũ lực. Việc này đe dọa an ninh trong vùng. Cuộc tranh chấp hôm nay được các nước trong Hiệp Hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), mà Kampuchia cũng như Thái Lan là thành viên, hiện đang nhóm họp Hội nghị thuợng đỉnh tại Djakarta (Nam Dương), hứa hẹn sẽ giải quyết trong « nội bộ ».

Câu hỏi đặt ra là giải pháp nào sẽ thỏa mãn cho cả đôi bên ? Phía Thái Lan cho rằng phán quyết của CIJ chỉ nói đến chủ quyền của ngôi đền mà không nói đến chủ quyền vùng đất chung quanh (diện tích 4,5 km²). (Xem hình 6)
Bài viết này sẽ thử tìm hiểu các nguyên nhân của tranh chấp, qua những mối tương quan về lịch sử, pháp lý, chính trị và văn hóa giữa hai nước Thái và Miên, để có một nhận định tổng quát về hình hình, sau đó thử đưa ra một phương hướng giải quyết. Dĩ nhiên, các yếu tố về địa lý chính trị, hoặc sức mạnh về kinh tế và quân sự của Thái Lan hiện nay, có thể có ảnh hưởng quan trọng đến việc đi tìm giải pháp chung cuộc.

1. Ngôi đền Preah Vihear :

Ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên mỏm núi cao 625 mét, nhìn xuống bình nguyên Kampuchia, thuộc rặng núi Dang Rek (là biên giới giữa hai nước Thái-Miên đã được phân định theo các hiệp ước Pháp-Thái 1904 và 1907 về phân định biên giới, sẽ nói bên dưới), tọa độ kinh độ 14°23’ 18° đông, vĩ độ 104°41’ 02° bắc, cách Nam Vang khoảng 400 km về hướng bắc và cách đền Angkor Vat khoảng 140 km về hướng đông-bắc. Khu vực đền Preah Vihear tập hợp nhiều kiến trúc, có diện tích khoảng 20 héc-ta, xây dựng theo chiều dài như hình 1a và 1b. Theo các nhà khảo cổ, ngôi đền được xây dựng, sau đó được tu bổ và sửa chữa, khoảng từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 12. Những ghi chú (bằng chữ Phạn và chữ Khmer) trên các tấm bia ở trong đền cho thấy các triều đại có đóng góp vào việc xây dựng và trùng tu là các triều đại Yacovaraman (889-910), Suryavarman I (1002-1049) và Suryavarman II (1112-1162). Đây là một di dản văn hóa lớn của nhân loại, được UNESCO công nhận từ năm 2008. Ngôi đền có kiến trúc đặc sắc văn minh Ấn Độ, thờ thần Shiva (Ấn Độ Giáo) sau trở thành chùa Phật giáo. Kiểu mẫu kiến trúc đền này được xem như là tiền thân của các kiến trúc được xây dựng hàng thế kỷ sau như ở Angkor Vat, là những thể hiện sự huy hoàng của nền văn minh Khmer. Hiện nay đền được gọi qua hai tên : tên Khmer là Preah Vihear, tên Thái là Khao Phra Viharn, cùng có nghĩa là « đền thờ thánh ». Đền thuộc tỉnh Preah Vihear (Kampuchia), tiếp giáp với tỉnh Sisaket (Thái Lan) phía đông bắc.

Từ phía Kampuchia, địa hình mỏm núi rất cheo leo, vách đá hình thẳng đứng, từ đây lên đền thiêng rất khó khăn, vì đường đi là một con đường hẹp, chênh vênh đẻo vào núi đá thành từng bậc thang, rất nguy hiểm. Về phía Thái Lan thì địa hình thoai thoải theo dốc lài, do đó từ phía Thái Lan lên đền thiêng rất dễ dàng. Từ 2008, sau khi ngôi đền được UNESCO công nhận là di sản văn hóa và lịch sử của nhân loại thì từ phía Kampuchia, một con đường làm bằng những bậc thang gỗ từ đồng bằng lên đến đền. Xem hình 2.

Preah Vihear 1

Hình 1a : Quần thể đền Preah Vihear.

Preah Vihear 1c

Hình 1b : quần thể Preah Vihear nhìn từ một góc khác.

Preah Vihear 1d

Hình 2 : đường dẫn bằng cầu thang gỗ, mới làm sau năm 2008, từ phía Kampuchia lên đền.

2. Sơ lược lịch sử :

2 .1 Sự suy vi của đế quốc Khmer.

Trước thế kỷ thứ 14, đế quốc Khmer là một đế quốc hùng mạnh, có một nền văn minh sáng chói. So với các kiến trúc đã được xây dựng tại Châu Âu cùng thời, thì kiến trúc Angkor Vat được các nhà khảo cổ đồng ý xem là vượt trội so với các kiến trúc phương Tây. Đế quốc Khmer chỉ bắt đầu suy sụp từ khi Vương quốc Xiêm Ayuthia thành lập, vào thế kỷ 14. Dưới sự bành trướng thường trực của Xiêm (lần lượt qua ba đế quốc Sukhôthaï, Ayuthia và Bangkok), qua nhiều thế kỷ, lãnh thổ của đế quốc Khmer bị mất vào nước Xiêm rất lớn (khoảng 2/3 diện tích Thái Lan hiện nay). Angkor, tượng trưng cho trung tâm văn hóa và sức mạnh của đế quốc Khmer, bị Xiêm chiếm và cướp sạch vào năm 1350. Mặc dầu quân Khmer chiếm lại được Angkor năm 1357 nhưng vào năm 1431 thì Angkor bị bỏ phế do sự suy yếu của triều đại Khmer cũng như sự uy hiếp thường trực của quân Xiêm. Các trung tâm quyền lực của Khmer sau này được xây dựng như Ba-san, Phnom Penh và Longvek. Đến năm 1594, Longvek, trung tâm quyền lực cuối cùng của đế quốc Khmer sụp đổ. Từ đó vương quốc Khmer trở thành chư hầu của đế quốc Xiêm.

Có thể cho rằng nền văn minh Khmer tàn lụn từ khi bỏ Angkor. Biến cố sụp đổ của Longvek thế kỷ sau đó đánh dấu sự chấm dứt nền văn minh Khmer. Dân tộc Khmer đã bị quân Xiêm giết chóc, đồng hóa, bắt làm nô lệ, truy nã suốt nhiều thế kỷ. Dân tộc này phải tản mát, trốn vào rừng sâu núi thẳm để tồn tại, đến đổi dấu tích văn hóa và ký ức về nguồn cội của họ đã bị xóa sạch. Những gì của tổ tiên họ xây dựng, như đền Angkor Vat, họ hoàn toàn không biết. Các phế tích này chỉ mới được phát hiện vào giữa thế kỷ 19, nhờ sự khám phá tình cờ của các nhà thám hiểm người Pháp.

Dân tộc Khmer chịu sự bành trướng và đồng hóa của Xiêm, từ phía bắc xuống và từ phía tây sang, cho đến thế kỷ 17 thì đụng độ một thế lực khác, với một nền văn minh đối chọi khác, đó là đế quốc Đại Việt, hiện hữu ở phía đông, chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa.

Đến cuối thế kỷ 18, đế quốc Khmer chỉ còn là một nước nhược tiểu. Để hiện hữu, các vua Khmer phải chịu thần phục cả hai đế quốc Xiêm và Đại Việt. Người Pháp đặt chân đến Đông Dương vào giữa thế kỷ 19, trở thành cứu tinh của dân tộc Khmer. Vua nước Pháp chấp nhận thỉnh nguyện của vua Khmer xin được sự bảo hộ của Pháp. Nhờ sự can thiệp của Pháp mà việc bành trướng của Xiêm mới ngưng lại (nhưng sự suy vi của Khmer chỉ mới chấm dứt sau chế độ Khmer đỏ sụp đổ).

2.2 Khmer dưới thời bảo hộ của Pháp.

Năm 1856 vua Ang Duong thỉnh cầu được sự bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực đối ngoại và đối nội.

Pháp đại diện Khmer ký kết hiệp ước đầu tiên với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, buộc Xiêm phải từ bỏ quyền « thuợng quốc » của Xiêm đối với Khmer (tương tự Hòa ước Thiên Tân giữa Pháp và nhà Thanh về Việt Nam năm 1885). Nhưng do thế lực của Pháp còn yếu, ảnh hưởng của Xiêm còn sâu sắc trong nội bộ ở các tỉnh thuộc Khmer ở hữu ngạn sông Cửu Long, do đó Pháp nhượng cho Xiêm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap.

Sau khi đặt được nền hành chánh thực dân tại Nam Kỳ và bảo hộ tại Bắc Kỳ, đến năm 1893, trong lúc việc phân định biên giới giữa miền bắc Việt Nam và các tỉnh Hoa Nam tiến hành theo các kết ước 1885 và 1887, Pháp nhận ra rằng quân Xiêm đã tiến chiếm các vùng thuộc Lào (Vientiane và Luang Brabang), phía tả ngạn sông Cửu Long, (có nơi gần sát Việt Nam, gần đèo Ai Lao thuộc Bình Định, cũng như các nơi có dân tộc Thái sinh sống), mà các vùng này trước đây thần phục Việt Nam. Điều nên biết là Thái Lan nằm giữa hai thế lực đế quốc Anh tại Miến Điện và Pháp tại Việt Nam (và Kampuchia). Vì thế Pháp đưa chiến thuyền uy hiếp Bangkok. Thời điểm này hải quân của Pháp có thể trội hơn hải quân Anh, do đó phía Anh Quốc ngồi yên để Pháp uy hiếp Xiêm. Quân Xiêm phải bỏ Lào và rút về bên kia sông Cửu Long. Việc này đưa đến hòa ước Pháp-Xiêm ngày 3 tháng 10 năm 1893. Theo đó, ở phía Lào, Xiêm phải từ bỏ mọi tham vọng về lãnh thổ ở phía tả ngạn sông Cửu Long; ở phía Cambodge thì trả lại cho Khmer các tỉnh hữu ngạn sông Cửu Long, tức vùng lãnh thổ đã nhượng cho Thái Lan từ năm 1867. Hòa ước này cũng dự trù một công trình phân định biên giới giữa Thái và Đông Dương.

Hai thỏa ước về biên giới ngày 7 tháng 10 năm 1902 và ngày 13 tháng giêng 1904, tiếp nối hệ quả của hòa ước 1893, buộc Xiêm phải trả lại cho Khmer các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap. Việc cắm mốc được thực hiện trên thực địa năm 1907 qua một công ước phân định biên giới.

Việc phân định biên giới cũng như việc trả lại 3 tỉnh cho Cambodge, được tái khẳng định qua các hiệp ước Pháp-Xiêm ngày 14 tháng 2 năm 1925, hiệp ước Pháp-Xiêm về Đông Dương ngày 25 tháng 8 năm 1926 và hiệp ước hữu nghị Pháp-Xiêm ngày 7 tháng 12 năm 1937. Hiệp ước hữu nghị Pháp-Xiêm 1937 xác định các thể lệ về thuơng mãi và lưu thông (trên sông Cửu Long) nhưng cũng đính kèm một qui ước (charte) về biên giới giữa Thái và Pháp liên quan đến hai nước Lào và Miên mà Pháp là nước bảo hộ. Điều 22 kết ước này khẳng định hiệu lực của các hiệp ước về biên giới ký năm 1904 và 1907.

3. Đường biên giới qui ước :

3.1 Đường biên giới Thái-Miên theo hiệp ước 13-2-1904 và công ước 23-3-1907.

Theo Hiệp ước 13-2-1904 :
Article 1er
La frontière entre le Siam et le Cambodge part, sur la rive gauche du Grand Lac, de l'embouchure de la rivière Stung Roluos, elle suit le parallèle de ce point dans la direction de l'est jusqu'à la rencontre de la rivière Prék Kompong Tiam, puis, remontant vers le nord, elle se confond avec le méridien de ce point de rencontre jusqu'à la chaîne de montagnes Pnom Dang Rek. De là elle suit la ligne de partage des eaux entre les bassins du Nam Sen et du Mékong, d'une part, et du Nam Moun, d'autre part, et rejoint la chaîne Pnom Paclang dont elle suit la crête vers l'est jusqu'au Mékong. En amont de ce point, le Mékong reste la frontière du royaume de Siam, conformément à l'article I du traité du 3 octobre 1893.
Article 3e
Il sera procédé à la délimitation des frontières entre le royaume de Siam et les territoires formant 1'Indo-Chine française. Cette délimitation sera effectuée par des commissions mixtes composées d'officiers nommés par les deux pays contractants. Le travail portera sur la frontière déterminée par les articles 1 et 2, ainsi que sur la région comprise entre le Grand Lac et la mer.

Theo Công ước 23 tháng 3 năm 1907 :

Clause I :
La frontière entre l'Indochine Française et le Siam part de la mer en un point situé en face du plus haut sommet de l'île de Koh Kut. Elle suit à partir de ce point une direction Nord-Est jusqu'à la crête de Phnom Kravanh. Il est formellement convenu que, dans tous les cas, les versants Est de ces montagnes, y compris la totalité du bassin Klong Kopo, doivent rester à l'Indochine Française.
La frontière suit la crête des Phnom Kravanh dans la direction du Nord jusqu'au Phnom Thom qui se trouve sur la ligne principale de partage des eaux, entre les rivières qui coulent vers le Golfe de Siam et celles qui coulent vers le Grand Lac. Du Phnom Thom la frontière suit d'abord dans la direction du Nord-Oest, puis la direction du Nord, la limite actuelle entre la province de Battambang d'une part, et celle de Chantaboun et Krat d'autre part, jusqu'au point où cette frontière coupe la rivière appelée Nam-Sai. Elle suit alors le cours de cette rivière jusqu'à son confluent avec la rivière de Sisophon et cette dernière jusqu'à un point situé à 10 kilomètres en aval de la ville d'Aranh. De ce dernier point enfin, elle se continue en droite ligne jusqu'à un point situé sur les Dang-Rèk à mi-chemin entre les passes appelées Chong-Ta-Koh et Chong-Sa-Met. Il est entendu que cette dernière ligne doit laisser en territoire siamois la route directe entre Aranh et Chong-Ta-Koh.
A partir du point ci-dessus mentionné, situé sur la crête de Dang-Rek, la frontière suit la ligne de partage des eaux entre le bassin du Grand-Lac et du Mékong d'une part, et le bassin du Nam-Meun d'autre part et aboutit au Mékong en aval de Pak-Moun, à l'embouchure du Huei-Done, conformément au tracé adopté par la précédente commission de délimitation le 16 Janvier 1907.
Un croquis schématique de la frontière décrite ci-dessus est annexé au présent protocole.

Điều 1 của Hiệp ước 1904, phản ảnh từ điều 1 của Hiệp ước 3-10-1893, sau đó được xác định bằng văn bản (khoản 1) « Nguyên tắc về phân định biên giới đính kèm hiệp ước 23 tháng 3 năm 1907 » và bản đồ đính kèm.

Khoản 1 của « Nguyên tắc về phân định biên giới đính kèm hiệp ước 23 tháng 3 năm 1907 » như đã thấy bao hàm nội dung Hiệp ước 3-10-1893 và Điều 1 Hiệp ước 13-2-1904, do đó đầy đủ và chính xác (vì có bản đồ đính kèm). Nội dung được tạm dịch như sau :

Khoản 1 : Biên giới giữa Đông Dương thuộc Pháp và Xiêm bắt đầu từ một điểm ngoài biển, đối diện với điểm cao nhất của đảo Koh Kut. Từ điểm này (đường biên giới) theo hướng đông bắc đến đỉnh Phnom Kravanh. (Hai bên) xác quyết rằng trong mọi trường hợp, triền phía đông của những ngọn núi, bao gồm toàn bộ lưu vực Klong Kopo, thuộc về Đông Dương thuộc Pháp.
Đường biên giới qua các đỉnh của rặng núi Phnom Kravanh theo hướng bắc đến Phnom Thom, (là điểm) nằm trên đường phân thủy chính của các con sông chảy vào vịnh Thái Lan và những con sông chảy Biển Hồ. Từ Phnom Thom đường biên giới thoạt tiên theo hướng đông bắc, sau đó chuyển qua phía bắc, ranh giới hiện tại giữa các tỉnh Battambang một bên, và của tỉnh Chantaboun và tỉnh Krat một bên, cho đến điểm mà tại đó đường biên giới này cắt dòng sông mang tên là Nam Sai. Sau đó đường biên giới theo con sông này cho đến hợp lưu của nó với sông Sisophon, theo sông này cho đến điểm cách tỉnh Aranh 10 km về phía hạ lưu. Cuối cùng từ điểm chót này, đường biên giới theo một đường thẳng đến một điểm trên rặng Dang-Rek, khoảng giữa hai cửa ải gọi là Chong-Ta- Koh và Chong-Sa-Met. Việc này được hiểu là đường (biên giới theo đường) thẳng vừa nói để lại con đường trực tiếp nối Aranh và Chong-Koh-Ta thuộc về đất Xiêm.

Từ điểm ghi trên, ở trên đỉnh của rặng núi Dang Rek, đường biên giới theo đường phân thủy giữa lưu vực Biển Hồ và sông Mekong một mặt, với lưu vực sông Nam Meun mặt khác, và dẫn đến sông Mekong ở hạ lưu của Pak-Moun, ở cửa sông Huei-Done, theo đúng như đồ tuyến đã được chấp nhận của ủy ban phân định ngày 16 tháng giêng năm 1907.

Một sơ đồ đường biên giới được mô tả ở trên được đính kèm theo đây (hình 3 và hình 3a).

Preah Vihear 3

Hình 3 : Bản đồ phân định đính kèm hiệp ước 16 tháng giêng năm 1907 do hai ủy ban « Bernard » và « Monguers » thực hiện từ 1903 đến 1907.

Preah Vihear 3a

Hình 3a : Khu vực ngôi đền Preah Vihear và đường biên giới trong khu vực được họa theo bản đồ đính kèm công ước.
Như thế phần lớn đường biên giới Thái-Miên, kể cả vùng cận đền Preah Vihear, được xác định bằng rặng núi Dang Rek, theo đoạn có gạch dưới của văn bản phân định biên giới : đường biên giới theo đường phân thủy, tức đường sống núi, chạy qua các đỉnh cao nhất của rặng núi Dang Rek.

3.2 Tranh chấp đền Preah Vihear

Phía Thái Lan bắt buộc phải trả lại đất các tỉnh đã chiếm năm 1941 cho Khmer, theo như các thỏa ước đã ký với Pháp tại Washington tháng 12 năm 1946, nhưng tại khu vực ngôi đền Preah Vihear thì quân Thái, đóng tại đây từ năm 1941, vẫn không chịu rút đi. Phía ngoại giao Pháp có can thiệp hai lần vào năm 1949 nhưng không có hiệu quả. Khmer được Pháp trả độc lập ngày 3 tháng 12 năm 1953. Đầu năm 1954, bộ ngoại giao Khmer bắt đầu gởi công văn chính thức phản đối Thái Lan về vấn đề ngôi đền. Việc tranh chấp hai bên Thái-Miên về chủ quyền ngôi đền trở nên gay gắt hơn vào năm 1955 khi phía Khmer tuyên bố trung lập. Phía Thái cho rằng quyết định của Khmer đã trở thành một đe dọa an ninh của Thái. Việc này có thể hiểu vì chính giới Thái Lan lo ngại, quân Thái cộng, xuyên qua đất Khmer, sẽ tìm được hậu phương để quấy phá trong lâu dài. Vì mọi người ai cũng biết bề trong của Sihanouk đã bắt tay với Bắc Kinh. Biên giới Thái vì thế được quân sự hóa. Ngôi đền nhân dịp này cũng được phía Thái Lan trùng tu. Việc hành hương lên ngôi đền dĩ nhiên do cảnh sát Thái kiểm soát. Dầu vậy phía Thái cũng dễ dàng cho dân Khmer lên đền hành hương. Phía lãnh đạo Khmer thì nhất quyết Preah Vihear phải trả lại cho Khmer. Kể từ lúc này, dầu không cụ thể như Nam và Bắc Việt Nam, nhưng tranh chấp ngôi đền đã có âm hưởng mâu thuẫn về thức hệ chính trị (hai phe đối nghịch trong chiến tranh lạnh), Thái Lan bắt đầu giúp cho phe chống đối với Sihanouk.

Tháng 3 năm 1956, Sihanouk đề nghị đưa việc tranh chấp ngôi đền trước một trọng tài quốc tế. Tháng 12 cùng năm, phía Khmer cho biết sẽ đưa nội vụ ra trước Liên Hiệp Quốc nếu quân Thái không chịu rút.

3.3 Lý lẽ của Thái Lan :

Thái Lan viện lý lẽ ở việc không phù hợp giữa nội dung văn bản mô tả đường biên giới với bản đồ đính kèm.

Thật vậy, theo văn bản phân định ngày 23 tháng 3 năm 1907 ở trên, đường biên giới là đường phân thủy của rặng Dang Rek. Theo hình thể địa lý khu vực đền Preah Vihear, ta thấy quần thể này được xây dựng trên mỏm đá cao nhất so với các chóp núi chung quanh. Hợp lý thì đường biên giới phải đi qua khu quần thể này (xem hình 4). (Để xác định đường phân thủy trong các cuộc phân chia biên giới, nhân viên cắm mốc thường lấy nước đổ lên mặt đất, sau đó xem nước chảy về hướng nào. Giả sử trong trường hợp biên giới Thái-Miên, nếu nước chảy về phía sông Cửu Long hay lưu vực Biển Hồ thì vùng đất đó thuộc Khmer. Ngược lại, nếu nước đó chảy vào sông Nam Meun thì đất đó thuộc Thái Lan.)

Nhưng trên bản đồ thì toàn khu quần thể Preah Vihear thuộc về lãnh thổ Khmer. Theo các biên bản phân giới, đường bên giới cách quần thể Preah Vihear 500 m. (Công việc cắm mốc kéo dài từ năm 1904 đến năm1904, do hai ủy ban phụ trách.)

Preah Vihear 2

Hình 4 : Góc bản đồ khu vực Preah Vihear, có ghi độ cao các chỏm núi. Khu đền được xây dựng ở đỉnh cao nhất.

Như vậy có sự mâu thuẫn giữa văn bản phân định biên giới và bản đồ đính kèm văn bản.

(Trường hợp này không phải là hiếm hoi, nếu so sánh biên giới Thái-Miên với việc phân định và phân giới giữa Pháp và nhà Thanh về biên giới giữa các tỉnh Hoa Nam và Bắc Kỳ. Tại đây, hầu hết các biên bản phân định cũng như các bản đồ đính kèm đều hoàn toàn sai với địa hình trên thực địa. Việc này đã gây khó khăn và làm mất nhiều thì giờ cho các ủy ban phân giới cắm mốc. Đường biên giới do đó không rõ rệt. Đó là hậu quả của các viên công chức làm việc trên bàn giấy, phân định một cách mù quáng trên bản đồ, bằng những đường thẳng, không cần biết tấm bản đồ đó có đúng hay không và đường biên giới (theo đường thẳng) qua đồi núi, sông suối, chia cắt làng mạc ra sao ? Ở các trường hợp khác, tại các nước Châu Phi hay Trung Đông, việc phân định biên giới trên bản đồ, hoạch định đường biên giới theo đường thẳng, kinh tuyến hay vĩ tuyến, bất kỳ đường này đi qua sông suối, đồi núi như thế nào. Tệ hơn, các đường này phân chia làng mạc ra làm hai. Nhiều bộ tộc cùng một giống nòi mà bị chia ra làm hai, làm ba nước. Có nhiều dân tộc lớn bị phân chia rải rác, không có quốc gia. Đôi khi nhiều bộ tộc, hay dân tộc, có thù hận với nhau lại cho ở chung vào một nước. Hệ quả của các việc này gây ra nhiều cuộc chiến tranh đòi tự trị, các cuộc thanh lọc chủng tộc, diệt chủng… mà đến hôm nay vẫn chưa chấm dứt.)

Phía Thái Lan cho rằng trong trường hợp này giá trị văn bản sẽ cao hơn giá trị của bản đồ. Họ cũng cho rằng tại khu vực này nhân viên phân định đã phân định không đúng qui tắc được xác định trong văn bản đồng thời lúc phân định tại khu vực ngôi đền thì không có mặt của nhân viên phân định phía Thái Lan. Tuy nhiên, việc này, kiểm chứng lại biên bản ngày 18 tháng giêng năm 1907 thì thấy không đúng. Nhân viên Thái có mặt trong lúc phân định khu vực đền Preah Vihear. Đề nghị của Thái Lan hai bên mở cuộc thảo luận để làm sáng tỏ đường biên giới.

Tháng 5 năm 1957, Thái đề nghị một « ủy ban địa lý hỗn hợp » để xét lại đường biên giới. Theo họ, ngôi đền thuộc về lãnh thổ Thái. Phía Thái cũng cho rằng, cho dầu ngôi đền này thuộc về bất kỳ nước nào, hai nước cần phải dành sự dễ dàng cho việc đi hành hương của dân chúng hai bên hoặc du khách nước ngoài. Một văn kiện ngoại giao của Thái, tuyên bố năm 1958, đề nghị hai nước đều có chủ quyền chung tại ngôi đền. Nếu trường hợp bên Khmer không đồng ý, Thái sẽ đặt lại vấn đề toàn bộ hồ sơ phân định biên giới. Bởi vì, lý luận của Thái, Thái ký hiệp ước biên giới là ký với Đông Dương thuộc Pháp chức không phải ký với Khmer. Khmer và Đông Dương thuộc Pháp là hai nước khác nhau. Thái cũng cho biết là sẵn sàng xuất ngân quĩ để trùng tu lại ngôi đền đồng thời cũng biện hộ cho việc dàn quân ở khu vực đền Preah Vihear là chỉ nhằm mục đích bảo vệ ngôi đền mà thôi.

Đề nghị thuơng thảo của Thái Lan được phía Khmer chấp thuận. Phía Thái đề nghị một ủy ban hỗn hợp để nghiên cứu hồ sơ Preah Vihear nhưng phía Khmer chỉ đồng ý thuơng thuyết trên căn bản các kết ước về biên giới đã ký trong quá khứ giữa Pháp và Thái.

3.4 Trọng tài quốc tế :

Rốt cục vấn đề tranh chấp được phía Cambodge đưa đưa ra Tòa án Quốc tế ngày 6 tháng 10 năm 1959. Mặc dầu phía Thái Lan khiếu nại, yêu cầu CIJ bác đơn, nhưng qua phiên tòa sơ thẩm ngày 26 tháng 5 năm 1961, CIJ tuyên bố có thẩm quyền phân xử vì hai bên Thái và Cambodge đều có phê chuẩn chấp nhận hiệu lực các phán quyết của CIJ. Hồ sơ có mã số CIJ 65.
Nguyên văn vụ xử ngôi đền Preah Vihear ngày 15 tháng 6 năm 1962 được ghi lại, những đoạn quan trọng, như sau (nguồn : CIJ) :

a) Với 9 phiếu trên 3, Tòa phán rằng ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của Cambodge. Vì vậy Thái Lan phải cho rút đi các lực lượng quân sự hay cảnh sát, hay những người canh gác đã được bố trí tại ngôi đền, hay ở các khu vực chung quanh, thuộc lãnh thổ Cambodge.

b) Với 7 phiếu trên 5, Tòa phán rằng Thái Lan phải trả lại cho Cambodge những bức tượng, các bia đá, những bộ phận rời thuộc về ngôi đền, những kiểu mẫu bằng sa thạch và đồ gốm cổ, đã có thể bị phía nhà chức trách Thái lấy ra khỏi đền, hay khu vực đền, trong lúc ngôi đền bị Thái chiếm đóng từ năm 1954.

CIJ đã lý luận như sau :

Ngôi đền cổ Preah Vihear ở trong tình trạng hoang phế, tọa lạc trên một mỏm núi thuộc rặng Dangrek mà rặng núi này là biên giới giữa hai nước Thái Lan và Cambodge. Mối tranh chấp có nguyên nhân từ việc phân định biên giới bắt đầu từ năm 1904 đến năm 1908 giữa nước Pháp, đại diện Đông Dương, và nước Xiêm. Việc phân định này chiếu theo công ước ngày 13 tháng 2 năm 1904. Công ước này đã thiết lập một cách tổng quát một đường biên giới, đường này sẽ được xác định chính xác bởi một ủy ban phân định hỗn hợp Pháp-Thái.

Ở khu vực có ngôi đền Preah Vihear, đường biên giới phải theo đường phân thủy. Theo thỏa thuận từ buổi họp ngày 2 tháng 12 năm 1906, để xác định đường phân thủy, ủy ban hỗn hợp phải tìm hiểu trên thực địa, qua một cuộc hành trình đi dọc theo đường sống núi của rặng Dangrek. Một trắc địa viên người Pháp cùng tháp tùng để ghi nhận địa hình toàn vùng phía đông của rặng núi. Điều không nghi ngờ là các vị chủ tịch của các ủy ban Pháp và Xiêm đã thực hiện cuộc hành trình này và những người này cũng đã có thể thăm viếng ngôi đền. Vào các tháng giêng – tháng hai năm 1907, ủy ban Pháp đã báo cáo lên chính phủ của họ rằng đường biên giới đã hoàn toàn được phân định. Như thế đường biên giới đã được xác định, cho dầu không tìm thấy dấu vết nào về một quyết định, hay một ghi nhận bất kỳ liên quan rặng núi Dangrek trong các biên bản được thành lập sau ngày 2 tháng 12 năm 1906. Lúc ủy ban nhóm họp để kết thúc công trình phân giới, mọi người đã chỉ tập trung vào kết luận về một hiệp ước khác, liên quan biên giới Pháp-Xiêm, tức hiệp ước ngày 23 tháng 3 năm 1907.

Công tác cuối cùng của công trình phân định là làm bản đồ. Nhà nước Xiêm, vì không có phương tiện kỷ thuật, đã yêu cầu nhân sự phía Pháp để thành lập các bản đồ vùng biên giới. Các bản đồ đã được một nhóm người Pháp hoàn tất vào xuân năm 1907, trong đó có sự tham gia của nhiều người thuộc ủy ban hỗn hợp. Nhóm người này đã thường xuyên quan hệ với nhà nước Xiêm trong năm 1908. Một tấm bản đồ của ê kíp (sau khi thiết lập) đã giao cho nhà nước Xiêm, theo đó đền Preah Vihear nằm trên lãnh thổ Khmer. Tấm bản đồ này cũng tài liệu I (hình 3 và hình 3a) đính kèm hồ sơ, đã được phía Cambodge làm căn bản để đòi hỏi chủ quyền ngôi đền.

Phía Thái phản biện : 1/ bản đồ không do ủy ban hỗn hợp thiết lập, do đó nó không có giá trị bắt buộc ; 2/ tấm bản đồ vẽ đường biên giới không phù hợp với đường phân thủy, mà đáng lẽ đường (phân thủy) này để dành ngôi đền về phía Thái ; 3/ tấm bản đồ này cũng chưa hề được phía Thái công nhận, hoặc giả nếu có, là do phía Thái Lan tưởng rằng đường biên giới đã vẽ đúng theo đường phân thủy.

Lý lẽ của Tòa trước phản biện của Thái : Tấm bản đồ I kèm theo chưa bao giờ được công nhận bởi ủy ban hỗn hợp. Ủy ban này đã ngừng hoạt động từ nhiều tháng trước khi tấm bản đồ I được thiết lập. Người ta có thể hoài nghi việc tấm bản đồ này đã được những trắc địa viên sử dụng làm căn bản trong khu vực núi Dangrek và Tòa cho rằng, nguyên thủy, tấm bản đồ này không có tính bắt buộc. Nhưng mọi người đã thấy, trong hồ sơ phân định, bộ bản đồ đã chuyển lên chính phủ Thái như là kết quả của công trình phân định biên giới. Nhà cầm quyền Thái đã không có phản ứng nào (về các tấm bản đồ này) từ thời kỳ đó, cũng không có phản ứng nào trong nhiều năm sau. Người ta phải kết luận rằng nó đã được sự chấp nhận chính phủ Thái. Nếu phía Thái đã chấp nhận tấm bản đồ đính kèm I mà không làm các cuộc nghiên cứu, thì bây giờ họ không thể vịn vào lỗi lầm này để làm vô hiệu điều mà họ đã chấp thuận.

Nhà nước Xiêm, sau đó là Thái Lan, đã chưa bao giờ đặt vấn đề về bản đồ đính kèm I trước năm 1958, là lúc hai bên Thái và Cambodge đã mở những cuộc thuơng thảo về chủ quyền ngôi đền. Trong khi đó, vào các năm 1934-1934, một cuộc trắc địa đã cho thấy có sự khác biệt giữa đường phân thủy trên thực tế và đồ tuyến biên giới trên bản đồ I. Một số bản đồ khác đã được thiết lập, trong đó đặt ngôi đền thuộc lãnh thổ Thái Lan. Nhưng phía Thái Lan vẫn tiếp tục sử dụng, thậm chí in ra, những tấm bản đồ theo đó ngôi đền Preah Vihear thuộc về phía Cambodge. Mặt khác, trong khoảng thời gian thuơng thuyết về hiệp ước Pháp-Xiêm 1925 và 1937, mà các hiệp ước này khẳng định hiệu lực của đường biên giới, hoặc là vào năm 1947, trước ủy ban hòa giải Pháp-Xiêm tại Washington, đáng lẽ phía Thái đã đặt lại vấn đề này, thì họ đã không làm gì cả. Tóm lại, như thế Thái Lan đã chấp nhận đường biên giới như đã vẽ trong bản đồ I, cho dầu nó có phù hợp hay không phù hợp với đường phân thủy của rặng Dangrek.

Phía Thái Lan đã tuyên bố rằng, trong mọi thời kỳ tranh chấp, vì đã chiếm hữu trên thực tế ngôi đền, do đó Thái không cần phải đặt lại vấn đề này. Việc chiếm hữu và hành sử chủ quyền trên thực tế là những bằng chứng rằng phía Thái Lan chưa bao giờ chấp nhận đường biên giới theo như bản đồ I.

Tòa bác lý lẽ này như sau : sẽ khó chấp thuận các hành động này, đến từ các chính quyền địa phương, vì nó phủ nhận thái độ của chính quyền trung ương. Hơn nữa, vào năm 1930, lúc hoàng thân Damrong (bộ trưởng bộ Nội Vụ Thái), lúc thăm viếng ngôi đền, đã được sự tiếp đón chính thức của giới chức Pháp phụ trách địa phương của Cambodge, dịp này Thái Lan đã không có thái độ nào.

Vì vậy Tòa cho rằng phía Thái Lan đã thực sự nhìn nhận tấm bản đồ I. Cho dầu còn hiện hữu một hoài nghi về việc này, nhưng bây giờ Thái Lan không thể phủ nhận cái mà họ đã ký nhận trước đó, bởi vì Pháp và Cambodge đã tin cậy vào nó, cũng như phía Thái Lan đã hưởng được những lợi ích mà công ước 1904 dành cho nước này trong vòng 50 năm. Mặc khác, sự ký nhận này bao hàm luôn tấm bản đồ I, như những điều ước khác. Vào thời kỳ đó hai bên có thỏa thuận về cách diễn đạt ý nghĩa của các điều ước, theo đó đường biên giới vẽ trên bản đồ sẽ mạnh hơn ý nghĩa diễn tả trong công ước. Trong khi đó, không có gì cho thấy rằng hai bên ký kết có sự chú ý đặc biệt đến đường phân thủy, cho dầu bản thân đường này thể hiện một sự quan trọng cực kỳ cho hai bên trong việc xác định đường biên giới. Tòa cho rằng ý nghĩa của nó hôm nay vẫn không thể khác.

Vì vậy, Tòa cho rằng, trong vùng tranh chấp, đường biên giới là đường xác định trên bản đồ I và sẽ không cần thiết để tìm hiểu là đường biên giới này có phù hợp với đường phân thủy hay không.

Vì những lý lẽ này Tòa phán quyết thắng kiện cho bên Cambodge về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear.

4. Vấn đề tranh chấp Preah Vihear từ sau vụ phân xử đến nay.

Quần chúng Thái Lan thời đó đón nhận tin CIJ xử Cambogde thắng kiện với sự phẫn nộ. Theo họ, nguyên nhân việc thua kiện là do những người có trách nhiệm đã không coi là quan trọng việc đưa ra tòa CIJ của phía Cambodge. Nhưng việc này, nếu theo dõi kỹ hồ sơ của Cambodge, phía Thái Lan khó có thể thắng, cho dầu Thái Lan có lập hồ sơ vững chắc đến mức nào. Bởi vì phía Cambodge đã áp đặt thẩm quyền quốc gia (effectivité) một cách liên tục và hòa bình tại ngôn đền trong một thời gian dài. Dĩ nhiên phản ứng của nhà nước Thái, trước áp lực của dư luận, tìm cách xoa dịu tình hình. Nhiều tướng lãnh lên tiếng cho biết sẽ « không bao giờ trả ngôi đền lại cho Cambodge » hay « mỗi tất đất của Thái Lan sẽ được bảo vệ bằng mọi giá, kể cả bằng xương máu của chúng ta… ». Chính phủ Thái Lan cho rằng nguyên nhân thất bại của Thái Lan là do sự hiện diện của cộng sản (sic !) và thành phần thực dân (ý nói các thẩm phán người Pháp) trong bồi thẩm đoàn. Chính phủ Thái cũng tìm cách trả đũa những nước đã tham gia vào phán quyết chống lại Thái Lan, cũng như đặt lại vấn đề phán quyết của CIJ đồng thời bác bỏ mọi nhượng bộ về lãnh thổ. Thái Lan cho triệu hồi đại sứ tại Pháp về nước để phản đối Pháp vì các học giả hay các luật gia của nước này đã giúp cho Cambodge trong việc soạn thảo và chuẩn bị tài liệu cũng như tư vấn về luật. Thái Lan cũng trả đũa Hoa Kỳ, mặc dầu nước này là đồng minh của họ, qua việc bộ Ngoại giao Thái tuyên bố sẽ không tham gia các buổi họp tại Hội nghị Genève về sự trung lập của Lào hoặc đại diện của Thái trong tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (OTASE) được nhận chỉ thị không nhóm họp cho đến khi có lệnh mới. Thái trả đũa Hoa Kỳ vì tại phiên xử của CIJ về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear, phía Cambodge được ông Dean Acheson, nguyên là thẩm phán Tối Cao Pháp Viện của Hoa Kỳ, giúp đỡ. Dân chúng Thái Lan cũng xuống đường phản đối dữ dội, trong suốt hai tháng, tháng sáu và tháng bảy năm 1962, với sự tham dự đông đảo của sinh viên từ các trường đại học trong nước.

Tuy nhiên, trong bối cảnh chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ cần sự ủng hộ không chỉ Thái Lan, (Nam VN) mà còn cả Lào và Cambodge trong chiến lược « be bờ - containment » chống lại khối cộng sản. Nhưng Thái Lan cũng cần Hoa Kỳ nhiều mặt, ít ra về các khoản viện trợ. Vì thế, Hoa Kỳ áp lực với chính phủ Thái để chấp nhận, hay ít ra không phản đối, phán quyết của CIJ đồng thời yêu cầu nước này tiếp tục trách nhiệm tại OTASE và ký thỏa ước về trung lập cho nước Lào. Thái âm thầm rút khỏi Preah Vihear từ ngày 15 tháng 7 năm 1962 nhưng phải đến đầu năm 1963 quân đội Cambodge mới bắt đầu tiếp quản ngôi đền này.

Nhà nước Thái giải thích cho dân chúng việc phải rút bỏ Preah Vihear vì các lý do từ điều 94 của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc : 1/ Tất cả các nước thành viên của LHQ cam kết tuân thủ các phán quyết của CIJ trong mọi tranh chấp mà nước thành viên này có can dự. 2/ Nếu một bên của vụ tranh chấp không thực thi những khoản bắt buộc do phán quyết của CIJ, thì bên kia có thể yêu cầu Hội Đồng Bảo An và cơ quan này, nếu thấy cần thiết, có thể khuyến cáo hay quyết định những phương cách cần thiết để thực hiện phán quyết đó.

Dầu vậy, phía Thái Lan cũng bảo lưu việc sẽ trở lại bằng mọi phương tiện hợp pháp, khi thời điểm cho phép, để dành lại chủ quyền ở ngôi đền. Một Ủy ban được thành lập gồm các nhà luật học, chuyên gia nhằm nghiên cứu về vấn đề Preah Vihear cũng như về chủ quyền của bốn tỉnh (hữu ngạn sông Cửu Long) hiện thuộc về Cambodge.

Nhưng vấn đề Preah Vihear vẫn không được giải quyết ổn thỏa, vì quân Thái chỉ rút đi các đơn vị đóng trong đền nhưng dưới chân ngọn đồi thì họ cho rào kẽm gai. Quân đội được lệnh khai hỏa vào bất kỳ ai vượt qua hàng rào này. Như đã thấy trong hình, ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên chỏm núi cao, ngăn cách với bình nguyên Cambodge bằng một bức tường đá thẳng đứng. Nếu dưới chân ngọn đồi hoàn toàn rào lại thì từ phía Cambodge không có cách nào lên đền. Phía Thái Lan viện lý do phán quyết của CJI chỉ liên quan đến chủ quyền ngôi đền mà không nói đến chủ quyền vùng đất chung quanh ngôi đền.
Chỉ hai tháng sau, súng đã nổ tại ngôi đền từ khi có phán quyết của CIJ. Ngày 24 tháng 8, quân đội Cambodge tổ chức một cuộc hành quân nhằm mục tiêu lập trong ngôi đền một đồn binh. Việc này không thành công vì quân Thái nổ súng. Chỉ đến năm 1963, nhân dịp đầu năm, ông hoàng Sihanouk tổ chức một cuộc hành hương lên ngôi đền, với sự tham gia của nhiều phái đoàn ngoại giao nước ngoài. Cuối cùng, ngày 5 tháng giêng năm 1963 cuộc hành hương được thực hiện hoàn hảo mà không xảy ra vấn đề nào. Cuộc hành hương được biến thành buổi lễ thâu nhận ngôi đền vào nước Cambodge.

Đến tháng 12 năm 1963, tình hình chính trị trong khu vực thay đổi. Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp sâu hơn vào nội tình Nam VN. Trong khi đó, ông hoàng Sihanouk công khai liên minh với Trung Cộng. Việc này gây tức tối cho Hoa Kỳ, vì Cambodge đã phá vỡ thế trung lập. Trong chừng mực, Cambodge trở thành hậu cần quan trọng của quân cộng sản. Nhân dịp này phía Thái Lan chuẩn bị kế hoạch để chiếm lại ngôi đền. Các cuộc chạm súng ở các vùng biên giới Thái-Miên trở nên thường trực. Nhà nước Thái cũng chuẩn bị dư luận trong nước, qua các tuyên bố của tướng Praphat trước một diễn đàn sinh viên : « Cho đến khi tôi chết, tôi vẫn ước mơ lấy lại ngôi đền Preah Vihear ».

Hoa Kỳ chấm dứt quan hệ ngoại giao với Cambodge tháng năm năm 1965. Trước đó một tháng, quân Thái đã thình lình tấn công và chiếm được ngôi đền, nhưng vài hôm sau thì bị quân Cambodge lấy lại. Các cuộc đụng độ kéo dài cho đến tháng 6 năm 1966. Ông hoàng Sihanouk vận động đưa vấn đề ra Hội Đồng Bảo An LHQ nhưng việc này không thành vì không thể thuyết phục để có đa số phiếu. Phía Thái Lan thì cho rằng nguyên nhân việc đụng độ giữa quân đội hai bên là do từ phía Cambodge nổ súng trước, quân đội Thái chỉ nổ súng tự vệ và trả đũa. Cho đến khi Cambodge và Hoa Kỳ nối lại quan hệ ngoại giao, tháng sáu năm 1966, thì tình hình biên giới Thái-Miên mới ổn định. Cuối tháng 6 năm 1966, một phái đoàn quân sự thuộc ONU đến quan sát khu vực và nhận thấy rằng mọi sự đều bình thường.

Hai bên Thái-Cambodge, qua trung gian của một ủy ban thuộc LHQ, từ tháng 9 năm 1966, bắt đầu đối thoại về vấn đề biên giới. Tháng 3 năm 1970 ông hoàng Sihanouk bị lật đổ. Tướng Lon Nol, thân Mỹ, lên lãnh đạo Kampuchia. Tình hình khu vực lúc đó bất ổn do thế lực của phe cộng sản tăng cao. Khmer đỏ được sự trợ giúp trực tiếp từ Trung Cộng nên phát triển mạnh. Do nhận định đúng tình hình, Thái Lan lựa chọn thái độ « không can thiệp » vào các vấn đề nội bộ của Kampuchia, vì lo ngại quân Thái cộng phát triển do bắt tay được với Khmer đỏ và Việt Cộng. Tướng Lon Nol đề nghị với Thái Lan hai nước « cộng đồng quản lý – condominium » về ngôi đền Preah Vihear để hy vọng liên kết với Thái Lan chống lại Khmer đỏ và Việt Cộng nhưng bị Thái từ chối. Thái viện lý do tình hình không thuận tiện để thuơng thảo về vấn đề biên giới. Vấn đề tranh chấp Preah Vihear vì vậy chìm vào quên lãng.

Một thời gian dài với gần ba thập niên Kampuchia liên tục chịu đựng chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng, họa diệt chủng, và bất ổn thường trực (1970-2000). Quân Khmer đỏ thua trận 1979, tàn quân rút vào các chiến khu vùng tây và tây bắc Kampuchia, giáp ranh với Thái Lan, tức khu vực thuộc các tỉnh Preah Vihear, Siem Reap, Battambang. Ở đây quân Khmer đỏ lại được các tài phiệt và quân phiệt Thái Lan bảo vệ, một mặt dùng Khmer đỏ bảo vệ biên giới, ngăn chận bước tiến của Việt Nam, một mặt mua bán đá quí. Khu vực ngôi đền bỏ hoang phế. Chỉ vài khoảng cuối thập niên 90, khi khối cộng sản sụp đổ và VN rút khỏi Kampuchia, hòa bình mới bắt đầu lập lại trên đất này.

Năm 2000, hai nước Thái và Kampuchia ký kết một bản ghi nhớ (MOU - memorandum of understanding) về việc hợp tác giữa hai bên trong một Ủy Ban hỗn hợp về biên giới JBC (Commission Mixte des Frontières) để kiểm soát và cắm mốc biên giới chung dựa trên các bản đồ đã được hai bên công nhận. Trong thời chiến tranh, một số mốc giới bị mất mát hay bị dời đi.
Hai bên chỉ căng thẳng trở lại từ tháng 7 năm 2008. Nguyên nhân bắt nguồn từ tháng 7 năm 2008, sau buổi họp tại Canada, UNESCO đã công nhận ngôi đền Preah Vihear của Kampuchia là một di sản văn hóa của nhân loại.

Preah Vihear 6

Hình 5 : Bản đồ khu vực Preah Vihear được UNESCO ghi vào « di sản văn hóa của nhân loại ». Vùng màu vàng thuộc về khu vực đền. Vùng màu xanh là vùng mở rộng.

Việc này gây làn sóng bất bình trong dân chúng cũng như chính giới Thái Lan. Họ cho rằng mặc dù ngôi đền Preah Vihear thuộc về Kampuchia nhưng khu vực này vẫn chưa được phân định rõ rệt. Nạn nhân đầu tiên là ông Noppadon Pattama, Bộ trưởng bộ Ngoại Giao Thái Lan. Ông này đã phải từ chức, vì đã ký với Kampuchia trước đó một thỏa ước hữu nghị liên quan đến việc ủng hộ đề nghị (lên UNESCO) của Kampuchia về ngôi đền Preah Vihear (là « di sản văn hóa nhân loại »). Văn bản ký kết, nếu có hiệu lực, không những hàm ý công nhận chủ quyền của Kampuchia tại ngôi đền mà còn công nhận toàn bộ khu vực chung quanh Preah Vihear (khoảng 4,5 km²) thuộc về Kampuchia. Theo phán quyết của Tòa án Tối cao Thái Lan thì thỏa ước hữu nghị mà ông Noppadon Pattama ký kết với Kampuchia thì không có hiệu lực, vì nó vi hiến.

Từ tháng 4 năm 2011, tranh chấp ngôi đền đột ngột căng thẳng trở lại, với vài cuộc chạm súng nhỏ giữa quân đội hai bên Thái-Khmer, làm cho một số lính của hai bên tử thuơng. Việc căng thẳng này làm cho dân chúng sinh sống các vùng phụ cận, gồm trên 10.000 người, phải di tản sang các vùng chung quanh. Cũng cần nhắc lại, năm 1992, Thái Lan đã chống lại việc UNESCO nhìn nhận Angkor Vat là di sản văn hóa của nhân loại.

Thực ra, nguyên nhân vụ căng thẳng bắt nguồn từ chính trị. Từ năm 2006, sinh hoạt chính trị Thái Lan có nhiều bất ổn. Vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ thường xuyên được các đảng phái chính trị khai thác để kích động quần chúng. Thủ tướng Thaksin bị quân đội đảo chánh năm 2006, mặc dầu ông này đã được đắc cử qua một cuộc bầu cử dân chủ. Việc loại ông Thaksin ra khỏi chính trường bằng một phương pháp « phi dân chủ » đã làm cho dân chúng, phe ủng hộ Thaksin, phẫn nộ. Phe quân đội đảo chánh được sự đồng thuận của nhà vua. Hiện nay chính quyền do phe dân sự đối lập với Thaksin nắm quyền lãnh đạo qua các cuộc bầu cử dân chủ sau này, nhưng sinh hoạt chính trị tại Thái Lan vẫn không ổn định. Tính chính thống của phe đối lập đã bị đặt vấn đề. Phe này trưng ra những bằng chứng cho thấy Thaksin tham nhũng, hàm ý biện hộ cho việc đảo chánh. Nhưng phương cách giải quyết « phi dân chủ », không thông qua pháp luật, được xem là vi hiến. Đây là mầm mống cho các bất ổn chính trị.

Preah Vihear 4

Hình 6 : Bản đồ khu vực ngôi đền Preah Vihear cho Thái Lan đưa lên UNESCO nhân đại hội tại Christchurch, Tân Tây Lan năm 2007. Theo đó Thái Lan cho rằng vùng màu vàng thuộc về Thái Lan.

5. Kết luận:

Xét đòi hỏi của Thái Lan quan tấm bản đồ (hình 6) năm 2007, ta thấy phía Thái nhìn nhận chủ quyền của Kampuchia ở ngôi đền nhưng không chấp nhận chủ quyền nước này khu vực đất chung quanh. Lý lẽ của Thái Lan do đó vẫn đặt trên việc đường biên giới là “đường phân thủy” thay vì là đồ tuyến trên bản đồ I.

Về pháp lý, nếu xét nội dung của phán quyết CIJ ghi ở phần trên, ta thấy CIJ nhìn nhận đường vẽ trên bản đồ I là đường biên giới hai nước. Việc Thái Lan phản đối bản đồ này hôm nay, cũng như lý lẽ của Thái trước tòa CIJ năm 1962, thì không thuyết phục. Thái Lan không đưa ra được yếu tố mới nào khác, ngoài việc nhắc đặt lại vấn đề đường biên giới vẽ trên bản đồ I. Việc này họ đã đặt ra từ năm 1962 qua vụ án nhưng không được CIJ chấp nhận. CIJ đã cho rằng, Thái Lan vì không phản đối tấm bản đồ này trong một thời gian dài, việc này hàm ý phía Thái đã đồng ý. Phán quyết : đường biên giới là đường xác định trên bản đồ I và sẽ không cần thiết để tìm hiểu là đường biên giới này có phù hợp với đường phân thủy hay không.

Về chính trị, rõ ràng sự việc tranh chấp hôm nay giữa hai nước Thái-Kampuchia về ngôi đền là do động lực chính trị từ các đảng phái ở Thái Lan. Nhớ lại lúc ông Lon Nol vừa lật đổ Sihanouk, ông này đề nghị với Thái Lan việc “cộng đồng quản lý – condominium”, tức hai bên đều có chủ quyền tại ngôi đền, nhưng Thái từ chối. Riêng ông Sihanouk, sau khi thắng kiện, có tuyên bố sẵn sàng để ngôi đền cho hai bên “quản lý”, dân chúng hai bên có quyền tự do hành hương và thăm viếng, nhưng chủ quyền thì thuộc về Cambodge. Phía Thái cũng không đồng ý.

Do những động lực chính trị giai đoạn của các tổ chức chính trị, quyền lợi đảng phái lớn hơn quyền lợi đất nước. Phía Thái Lan đã bỏ nhiều cơ hội có lợi cho mình, do phía Cambodge đề nghị, nhằm giải quyết tranh chấp ngôi đền. Tranh chấp tiếp tục đã đưa phía Thái Lan vào ngõ cụt.

Phán quyết của CIJ năm 1962 đã quá rõ rệt để có thể giải thích lại. Tòa đã khẳng định, cho dầu đường biên giới vẽ trên bản đồ có phù hợp với văn bản hay không, nó vẫn là đường biên giới chính thức giữa hai nước Thái và Cambodge.

Phán quyết ngày 11 tháng 11 năm 2013 của CIJ không thể khác : Cambodge có chủ quyền tại ngôi đền và vùng đất chung quanh, với sự đồng thuận của đa số tuyệt đối của bồi thẩm đoàn.

Hiệu lực của CIJ mang tính bắt buộc, được sự bảo kê của Hội đồng Bảo an LHQ. Phía Thái Lan từ nay khó lòng tìm được một lý do nào để đặt lại vấn đề chủ quyền tại ngôi đền này.


Tài liệu tham khảo :

Luciano Garavaglia, Le litige du temple de "Preah Vihear" dans le cadre des relations entre le Cambodge et la Thaïlande en pleine guerre froide (1950-1970), ISSN 1575-0698, Nº. 12, 2009. Pages. 73-112.

Hồ sơ « THE TEMPLE OF PREAH VIHEAR INSCRIBED ON THE WORLD HERITAGE LIST (UNESCO) SINCE 2008 » ; Bộ Ngoại Giao Vương quốc Cambodge.

http://www.thaiwhic.go.th/download/ICJ_15June1962.pdf

http://www.icj-cij.org/docket/index.php?sum=284&code=ct&p1=3&p2=3&case=45&k=46&p3=5&lang=fr&PHPSESSID=d97c62d76b31ec71c5d880754f52e040
http://www.icj-cij.org/docket/files/151/17705.pdf