TÌM HIỂU Ý NGHĨA TẤM BẢN ĐỒ CHÍN GẠCH (CHỮ U) CỦA TRUNG QUỐC QUA MỘT VÀI KINH NGHIỆM LỊCH SỬ
(Trương Nhân Tuấn, 1 tháng 6 năm 2009, talawas)
Trong quá khứ đã có nhiều lần Trung Quốc lấy được đất của nước ta, do vua quan VN tấn cống theo lối mua chuộc để được yên thân hay do lòng tham của Đại Hán. Nếu chỉ nhắc lại những lần lấn chiếm đất đai của Việt Nam do lòng tham, những vùng đất có giá trị về kinh tế và chiến lược, lý do để TQ biện hộ cho việc chiếm đất hình như trước sau như một : lấy tên một vùng đất nào đó của TQ đặt cho các vùng đất của VN, sau đó đem quân sang chiếm. Các vụ lấn đất, giành đảo, chiếm biển của VN xảy ra trong thế kỷ 20 cũng bắt đầu tương tự như vậy.
Về ý nghĩa của vùng biển chữ U, được vẽ bởi 9 gạch của TQ, chiếm phần lớn vùng biển của VN, bao gồm đến 80% Biển Đông là có ý nghĩa như thế nào ? Dựa trên lý do nào mà phía TQ khẳng định vùng biển này là của họ? Thiển nghĩ nhìn lại lịch sử, xét lại các trường hợp bị mất đất, cũng có thể cũng tìm ra một vài câu trả lời thỏa đáng.
1. Trường hợp năm 1724 : TQ chiếm tổng Tụ Long (thuộc châu Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang) vì nơi đây có nhiều mỏ : Mỏ bạc và đồng ở làng Na Ngọ (các mỏ Phượng Hoàng, Thiên Nguyên, Tụ Bảo, Mậu Hưng), mỏ đồng Bán Gia, mỏ kẽm Kha Thôn, mỏ bạc Nam Ðương cùng 4 mỏ bạc Long Sinh, Thủy Ðộng, Minh Chiều và Ðà Gia v.v…
Đất thuộc tổng Tụ Long của VN cách biệt với đất thuộc phủ Khai Hóa của TQ bằng con sông nhỏ tên Đổ Chú.
Theo Kiến văn tiểu lục của Lê Quí Đôn, năm 1724 (năm Bảo Thái thứ 5), Tổng đốc Vân Nam là Cao Kỳ Trác ra lệnh cho Dương Gia Công 楊加功 chiếm mỏ đồng Bán Gia và mỏ kẽm Kha Thôn thuộc tổng Tụ Long. Lý do đưa ra : vùng đất này thuộc Vân Nam, đã bị các thổ quan của nước ta chiếm đoạt.
Phía Việt Nam phản biện, cho rằng Cao Kỳ Trác « lầm lẫn làng Ma-Tu 痲須 với trại Mã Đô 馬都; làng Tà Lộ 斜路 với trại Bố Ðô 布都; làng Phù Không 扶空 với trại A Không 阿空; làng Phù Ni 扶尼 với trại Bạch Nê 白泥; làng Nhĩ Hô 爾呼 với trại Ngưu Hô-Hắc 牛呼黑 và quan trọng là lẫn lộn suối Tam-Khê 三溪 (hay là ba con suối ?) với sông Ðổ Chú ».
Rõ ràng, vì tham lam, phía TQ đưa quân sang chiếm đất, sau đó đặt cho các vùng quặng mỏ trù phú này của VN vài cái tên làng Trung Hoa, sau đó nói đất đó của họ. Đây là một hình thức ăn cướp được khéo léo ngụy trang.
Nhưng ở thời điểm này (1724) lực lượng quân sự Việt Nam được củng cố mạnh mẽ. Kiến văn tiểu lục ghi lại sự việc, nội dung tóm tắt như sau : « Chúa Trịnh Cương sai Trấn Thủ Trịnh Kinh ra mật lệnh cho các thổ ti đem quân cản và giữ chân chúng lại. Trịnh Kinh chận đầu, đóng quân tại làng Phù Lung. Thấy bên ta binh mã hùng mạnh và dân chúng theo qui phục, Tổng Trấn phủ Khai Hóa họ Phùng phải lui quân ».
« Về mặt ngoại giao, phía Việt Nam liên tục cho sứ giả lên đường sang Bắc Kinh khiếu nại. Cao Kỳ Trác thấy không dễ, bèn trả đất nhưng tìm cách giữ lại vùng mỏ đồng. »
« Phía bên Việt Nam tiếp tục phản đối. Tháng 4 năm 1725 vua nhà Thanh ra chiếu trả lại toàn vùng đất Tụ Long cho Việt Nam. »
« Sau khi có quyết định được trả lại đất, Chúa Trịnh ra lệnh cho các quan Hồ Phi Tích và Võ Công Tể đến với tri phủ Khai Hóa là Phiên Doãn Mẫn để thành lập ủy ban phân giới. Nhưng Doãn Mẫn vẫn ngoan cố muốn chiếm đoạt mỏ đồng nên gian dối chỉ định một con sông khác, dưới chân núi Duyên Xưởng và cho đó là sông Ðổ Chú, nhằm mục đích giữ lại làng, xã thuộc vùng Bảo Sơn. Việc này Võ Công Tể biết được, chỉ định vị trí thực sự của con sông Ðổ Chú. Từ đó vấn đề tranh chấp biên giới tạm kết thúc. »
Hình: bản đồ vị trí bia đá trên hai bờ sông Đổ Chú. Nguồn CAOM.
2. TQ lập mưu giành được đất Tụ Long qua việc phân định biên giới Pháp-Thanh 1885-1887:
Do âm mưu phá hoại của phía TQ, việc phân định biên giới vùng Vân Nam không được phân định trên thực địa mà chỉ phân định trên bản đồ.
Vùng Vân Nam được phân làm 5 tiểu đoạn, trên 5 tấm bản đồ. Ðoạn thứ 1 bắt đầu từ hợp lưu của sông Lũng Pô (Long-Bác 龍賻) với sông Hồng cho đến Mường Khương. Ðoạn thứ 2 từ Mường Khương đến Cao Mã Bạch. Ðoạn thứ 3 từ Cao Mã Bạch cho đến sông Nho Quế. Ðoạn thứ 4 từ sông Nho Quế đến giao giới tỉnh Quảng Tây. Ðoạn thứ năm từ hợp lưu sông Lũng Pô với sông Hồng cho đến biên giới Lào. Nhưng các tấm bản đồ phân định này do người Hoa vẽ ra, hoàn toàn sai, không có điểm nào phù hợp với thực địa.
Các đoạn 1, 3 và 4 được phân định không gặp khó khăn nhưng đoạn 2, từ Mường Khương đến Cao Mã Bạch, tức vùng thuộc các tổng Tụ Long và Phương Ðộ, và vùng 5 từ Lũng Pô đến biên giới Lào, hai ủy ban phân định Pháp Thanh không giải quyết được. Việc này phải đưa về Bắc Kinh để Tổng lý Nha môn (tương đương Bộ Ngoại giao) cùng Đặc sứ Toàn quyền Pháp tại đây quyết định.
Nguyên nhân bất đồng không giải quyết được ở đoạn 2, phía TQ cho rằng đường trung tuyến của sông Lô là đường biên giới và gọi đó là Ðổ Chú Hà. Trong khi phía ủy ban Pháp có đầy đủ sử liệu chứng minh, phản biện rằng sông đó không phải là sông Đổ Chú, mà là sông Lô của Việt Nam, TQ gọi Hắc Hà. Sông Lô ở về phía nam, trong khi sông Đổ Chú ở khá xa về phía bắc, gần Mã Bái Quan.
Phía bên người Hoa, nhất quyết muốn chiếm vùng đất trù phú này, bèn cho rằng sông Lô mới là Ðổ Chú Hà, còn con sông Đổ Chú thật, họ bịa ra một cái tên là Tiểu Đổ Chú Hà.
Trên bản đồ (rất sai) của đoạn 2 đính kèm, ta thấy đường biên giới đề nghị của hai bên biểu hiện bằng hai con sông, gạch mực đỏ. Đường phía bắc, chủ trương của ủy ban Pháp, sông mang tên Tiểu Ðổ Chú Hà (tức sông Đổ Chú thực). Đường phía nam, chủ trương phía người Hoa, sông mang tên Đổ Chú (tức sông Lô). Phần đất giữa hai đường đỏ là đất Tụ Long.
Nguồn bản đồ: CAOM
Đất Tụ Long của Việt Nam được giải quyết qua biên bản « bế mạc công trình phân định biên giới » ngày 26-6-1887, được người VN gọi lầm gọi là « Công ước Pháp – Thanh phân định biên giới » ngày 26 tháng 6 năm 1887. Thực ra công ước gồm một tập hồ sơ khá dày, gồm các biên bản phân định các vùng biên giới (1885-1887) và bản đồ đính kèm, sau đó là các biên bản phân giới cắm mốc (1888-1897) cùng bộ bản đồ đính kèm. Nguyên văn đoạn liên hệ :
« De Kéou-téou-tchaï (Cao-dao-traï 拘頭寨 Cẩu Đầu Trại) sur la rive gauche du Siao-tou-tchéou-hô (Tieu-do-chu-ha 小賭呪河 Tiểu Đổ Chú Hà), point M de la carte de la 2e section, elle se dirige pendant 50 lis (20 km) directement de l’ouest vers l’est, en laissant à la Chine les endroits de Tsiu-Kiang-cho ou Tsiu-y-chô (Tu-nghia-xa 聚義社 Tụ-Nghĩa Xã), Tsiu-mei-chô (Tu-mi-xa 聚美社 Tụ-Mỹ Xã), Kiang-feï-chô ou y-fei-chô (nghia-phi-xa 義肥社 Nghĩa-Phì Xã), qui sont au nord de cette ligne, et à l’Annam celui de Yéou-p’oug-chô (Hu-bang-xa 有朋社 Hữu-Bằng Xã), qui est au sud, jusqu’aux points marqués P et Q sur la carte annexe où elle coupe les deux branches du second affluent de droite du Heï-Ho (Hac-Ha 黑河 Hắc-Hà) ou Tou-tchéou-ho (Do-chu-ha 賭呪河 Đổ Chú Hà).
A partir du point Q, elle s’infléchit vers le sud-est d’environ quinze lis (6 kilomètres) jusqu’au point A, laissant à la Chine le territoire de Nan-tan (Nam don 南丹 Nam Đơn) au nord de ce point R ; puis, à partir de ce point, remonte vers le nord-est jusqu’au point S, en suivant la direction tracée sur la carte par la ligne RS, le cours du Nan-teng-hô (Nam dang ha 南燈河Nam-Đăng Hà) et les territoires de Mam-meï (Man mi 縵美 Mán Mỹ) de Meng-toung-tchoung-ts’oun (Mãnh Cang Trung Thôn 猛 崗 中村) restant à l’Annam. »
Tạm dịch : « Từ Cẩu Ðầu Trại ở phía tả ngạn sông Tiểu Ðổ Chú Hà, đường biên giới đi trực tiếp từ Tây sang Ðông khoảng 50 lí (20 km), để cho phía Trung Hoa các vùng Tụ Nghĩa Xã, Tụ Mỹ Xã, Nghĩa Phi Xã, các vùng này ở về phía Bắc của đường biên giới và để cho An Nam Hữu Bằng Xã, ở về phía Nam của đường biên giới, cho đến các điểm ghi là P và Q trên bản-đồ đính kèm, (P và Q) là nơi đường biên giới cắt hai nhánh của phụ lưu hữu ngạn thứ hai của Hắc Hà hay sông Ðổ Chú. Bắt đầu từ điểm Q, đường biên giới đi nghiêng về hướng Ðông Nam khoảng 15 lí (6 km), cho đến điểm R, để lại phía Trung Hoa vùng đất Nam Ðơn (chú thích tg : là vùng mỏ chì pha bạc) ở về phía Bắc điểm này, sau đó, từ điểm R nói trên, đường biên giới theo hướng đông bắc cho đến điểm S, theo như hướng đã vẽ trên bản đồ đường nối RS, theo sông Nam Ðăng Hà, vùng Mán Mỹ, Mãnh Khang Trung Thôn và Mãnh khang Hạ Thôn thì thuộc về An Nam. (Mãnh Khang là tên Hán gọi Mường Khương, chú thích tg).
Bản đồ đính kèm công ước 1887 : Đường đỏ nối các điểm MPQRST là đường biên giới. Nguồn: CAOM.
Kết quả làm cho Việt Nam mất vùng đất trù phú, giàu quặng mỏ (mỏ đồng, mỏ bạc, mỏ kẽm…) diện tích vào khoảng 700km2.
Như thế, TQ đã chiếm đất Tụ Long của VN bằng cách đổi tên các con sông. Năm 1724 thì lấy tên sông Đổ Chú đặt cho một con sông ở nơi khác, hay chỉ định sông Đổ Chú ở một nơi khác, xa hơn về hướng nam, mục đích để chiếm đất, nhưng vụ này không thành.
Năm 1887, TQ thành công chiếm được đất này cũng bằng một âm mưu ngày trước : đặt tên Đổ Chú cho một con sông khác (ở đây là sông Lô), sau đó dùng thủ thuật ngoại giao với Pháp để chiếm.
(Thực ra, ông Constans, Đặc sứ Toàn quyền Pháp tại Bắc Kinh, người có trách nhiệm về công ước phân định biên giới 1887, ông này cùng lúc thương lượng hai công ước : công ước về biên giới và công ước bổ túc cho công ước thương mãi « Convention additionnelle de Commerce ». Cả hai công ước cùng ký ngày 26 tháng 6 năm 1887. Để có ưu điểm về kinh tế, ông Constans đã nhưọng đất của VN cho TQ. Nhưng nếu không có âm mưu và lòng tham của TQ thì việc này đã không xảy ra).
Bản đồ: nguồn Les Mines de Tu-Long của Deloustal, xem phần tham khảo. Vùng gạch đỏ minh họa đất Tụ Long bị mất cho TQ (khoảng 700km²). Trên các bản đồ hiện nay, vùng Tụ Long là phần đất bị lõm vào, ở phía bắc tỉnh Hà Giang.
3. Vụ đất Vụ Kiến Duyên – Bát Tràng (Hải Ninh)
Trong biên bản phân định biên giới « Từ Trúc Sơn đến Chí Mã » ký ngày 29-3-1887 có ghi như sau :
Depuis Pei-che et Kia-long, la frontière suit le milieu de la rivière Kia-long, qui est un affluent occidental de la rivière de Pei-che (rivière de Pacsi 北市 江). Le cours de cette rivière a une longueur de trente li environs [ Note : chaque li équivaut à 561 mètres ], et au-delà de ces trentes li, la ligne frontière se dirige directement jusqu’à trois li comptés juste au nord de l’ancien marché du village de T’ong-tchong 峝 中 村, c’est-à-dire jusqu’au point A 甲de la carte n° 1. Les localités de Ling-Houai (嶺 懷 Lãnh-hoài), de P’i-lao (Phi-lao 披 勞), de Pan-hing (Bản-hưng 板 興), la montagne située au sud-est de Pan-hing, touchant à la frontière et appelée Fen-mao-ling (Phân-mao-lãnh 分茅 嶺) et autres lieux ; sont attribués à la Chine. Na-yang (Ná-duong 那 陽), Tong-tchong (Ðộng-trung 峝中) et autres lieux sont attribués à l’Annam.
Tạm dịch : Từ Bắc Thị – Gia Long đường biên giới theo trung tuyến sông Gia Long, là một phụ lưu tây ngạn của sông Bắc Thị 北市江, có độ dài khoảng chừng 30 lí (mỗi lí là 561 thước), và khi vượt ra ngoài 30 lí, đường biên-giới rời sông, theo đường thẳng trực tiếp để đến điểm cách Ðộng Trung 峝中村 3 lí về hướng Bắc, tức điểm được đánh dấu A (甲) trên bản đồ số 1. Ðường biên giới chia cho phía Trung Hoa các vùng Lãnh Hoài 嶺懷, Phi Lao 披勞, Bản Hưng 板興 v.v… và một ngọn núi mang tên Phân Mao Lĩnh 分茅嶺, núi này ở phía Ðông Nam của Bản Hưng 板興 và dựa lên đường biên giới. Các vùng Ná Dương 那陽, Ðộng Trung 峝中 và những nơi khác thì thuộc về An Nam.
Theo tinh thần biên bản phân định thì đường biên giới đi qua chân ngọn Phân Mao Lãnh và núi này thuộc Trung Quốc. Điều này phù hợp với biên giới lịch sử giữa hai nước.
Tuy nhiên, đến khi bắt tay vào việc phân giới thì mới thấy công việc hoàn toàn không như vậy. Bản báo cáo ngày 12 tháng 9 năm 1890 của ông Chiniac de Labastide, chủ tịch ủy ban phân giới (1890-1891) viết như sau :
Phân Mao Lãnh quan trọng cho việc xác định đường biên giới… hiện nay chúng ta có thế xác quyết rằng, không những núi này không có ở đây, mà nó còn không hiện hữu trong toàn vùng biên giới mà Ủy ban Phân giới đã thám hiểm. Không có một trái núi nào có tên tương tự.
Ông viết tiếp :
Theo vài nhà nghiên cứu, núi Phân Mao Lãnh có thể ở cách Khâm Châu khoảng 360 lí, tức 140 Km… khi tôi báo tin cho ông Chủ tịch Ủy ban Phân giới Trung Hoa, mặc dầu có nhiều nỗ lực tìm kiếm, tôi vẫn không tìm ra trái núi mà dưới chân nó có trụ đồng để đánh dấu biên giới của tướng Mã Viện là Phân-Mao Lãnh. Núi này hoàn toàn không ai biết. Ông này trước tiên im lặng, và vài ngày sau, ông chỉ tôi ở trên bản đồ, không phải ở phía Ðông Nam mà ở phía Ðông Bắc của Bản Hưng, phía nam Phi Lao, một trái núi nhỏ và cho đó là Phân Mao Lãnh. Khi tôi la lớn về sự phi lý này thì ông ta mới trả lời cho tôi, bằng một dáng điệu trịnh trọng, trái núi này không phải là Ðại Phân Mao Lãnh, nổi tiếng do trụ đồng của tướng Mã Viện, mà chỉ là một Tiểu Phân Mao Lãnh…,
Việc này cho thấy phía người Hoa đã đặt tên « Phân Mao » cho một ngọn núi vô danh ở thật xa về phía nam. Cũng trong báo cáo này, tác giả cũng cho biết phía bên TQ ngụy tạo đền thờ « Phục Ba tướng quân » ở gần đó cho núi Phân Mao có tính thuyết phục. Những dòng báo cáo của ông Chiniac De Labastide cho ta thấy âm mưu dàn dựng dành đất của Việt Nam của phía người Hoa. Sau khi âm mưu bị khám phá, họ trơ trẻn nói lại núi đó là Tiểu Phân Mao.
Hậu quả việc này ra sao? Ông Chiniac de Labastide viết trong bản báo cáo nói trên :
« người Hoa đã dành được của An Nam một vùng đất nghèo, nhưng rộng lớn mà họ chờ đợi để lấy ra từ đó những ưu điểm quan trọng. Giữa hai điểm này, trên một chiều dài khoảng 40 cây số, người ta đã bỏ biên giới lịch sử của An Nam và Trung Hoa để lấy một đường biên giới khác, ở xa về phía nam, một đường biên giới hoàn toàn qui ước. Việc này đã nhường cho Trung Hoa 7 xã rưỡi thuộc tổng Bát Tràng của An Nam và hai xã khác cũng của An Nam thuộc tổng Kiến Duyên.
Diện tích vùng đất này rất đáng kể. Chiều dài 40km, chiều sâu có nơi lên tới 140km (vị trí Phân Mao Lãnh). Nhiều nghi vấn đặt ra, từ khi nào đường biên giới thay đổi lớn lao như thế ? Phải chăng do hậu quả của vụ Mạc Đăng Dung ? Nhưng đây là một nghi vấn lịch sử khác.
4. Mất đất tại Nam Quan
a/ Buổi họp đầu tiên của hai ủy ban phân định biên giới Pháp-Thanh được nhóm tại Nam Quan ngày 12 tháng 12 năm 1885. Phía ủy ban Pháp lấy Đồng Đăng làm bản doanh và phía TQ lấy Nam Quan làm bản doanh.
Việc phân định xảy ra trên thực địa, có nghĩa là hai bên cùng cử người đi khảo sát trên thực tế và vẽ bản đồ.
Theo thực tiễn và lịch sử giữa hai nước Việt-Trung, đường biên giới luôn được xác định bằng các cửa ải, thí dụ : ải Du, ải Bố Sa, ải Sơn Tử, ải Bình Nhi, ải Ná Chi, ải Khấu Sơn v.v… Tại cửa ải Nam Quan (Trấn Nam Quan Ngoại, tức ải Bắc theo Việt Nam) đường biên giới lý ra phải đi ngang qua cửa, đất phía nam thuộc về Việt Nam, đất phía bắc thuộc về Trung Quốc. Nhưng phía người Hoa không muốn như vậy, họ không chấp nhận đường biên giới đi ngang qua cửa ải.
Theo bút ký của Bác-Sĩ Néïs «Sur Les Frontières Du Tonkin», việc phân định không dễ dàng vì người Hoa muốn giành toàn vùng chung quanh Nam Quan. Ông kể lại, khi phái đoàn Pháp vừa ra khỏi Ðồng Ðăng để đi lên cửa ải thì đã thấy cờ nheo cắm đầy trên những ngọn đồi chung quanh và lính Tàu phất cờ nheo đứng dọc hai bên đường. Phe Trung Quốc muốn chứng tỏ cho phái đoàn Pháp biết là họ đang ở trên đất của người Hoa.
Tuy nhiên việc này không thuyết phục được người Pháp, vì ủy ban Pháp đòi hỏi đường biên giới phải đi qua cổng Nam Quan, tức là bức tường đá nối cổng Nam Quan lên đỉnh núi. Nhưng phía TQ nhất định không đồng ý và đòi biên giới phải ở phía Nam cổng Nam Quan, tức đòi một thêm vùng đất trước cổng.
Việc phân định biên giới bị bế tắc ngay từ buổi họp đầu tiên. Công việc đình trệ 3 tháng. Sau đó, do áp lực của Pháp, phía bên người Hoa mới ngồi lại vào bàn họp. Kết quả đầu tiên, 6 tháng sau khi ủy ban Pháp được thành lập và 3 tháng làm việc, khi tại Ðồng Ðăng, khi tại Nam Quan, đường biên giới tại Nam Quan được xác định.
Theo biên bản số 4, phân định từ Nam Quan đến Bình Nhi, ký ngày 7 tháng 4 năm 1886, Pháp nhượng bộ đòi hỏi phi lý của TQ, đường biên giới phải lui về phía nam 100 mét, tức cách cổng Nam Quan 100 mét.
b/ Mất đất ở Hữu Nghị Quan : Hiệp định phân định biên giới tháng 12 năm 1999 đã nhưọng rất nhiều phần đất của VN cho TQ. Thí dụ khu vực nối đường ray, theo tài liệu Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay của NXB Sự Thật, năm 1979, Việt Nam tố cáo Trung Quốc đã lấn đất vùng Nam Quan. Nguyên văn như sau :
"Năm 1955, tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt Trung đến Yên Viên, gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt Trung sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên 300m so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua."
TQ lý luận như thế này : nếu là đất của VN tại sao có đường ray với kích cỡ của TQ ?
Các trường hợp khác, cũng trong tài liệu dẫn trên, nguyên văn như sau :
"Lợi dụng đặc điểm là núi sông hai nước ở nhiều nơi liền một dải, nhân dân hai bên biên giới vốn có quan hệ họ hàng, dân tộc, phía Trung Quốc đã đưa dân họ vào những vùng lãnh thổ Việt Nam để làm ruộng, làm nương, rồi định cư những người dân đó ở luôn chỗ có ruộng, nương, cuối cùng nhà cầm quyền Trung Quốc ngang ngược coi những khu vực đó là lãnh thổ Trung Quốc.
Khu vực Trình Tường thuộc tỉnh Quảng Ninh là một thí dụ điển hình cho kiểu lấn chiếm đó. Khu vực nầy được các văn bản và các bản đồ hoạch định và cắm mốc xác định rõ ràng là thuộc lãnh thổ Việt Nam: đường biên giới lịch sử tại đây đi qua một dãi núi cao, chỉ rõ làng Trình Tường và vùng chung quanh là lãnh thổ Việt Nam. Trên thực tế, trong bao nhiêu đời qua, những người dân Trình Tường, những người dân Trung Quốc sang quá canh ở Trình Tường đều đóng thuế cho nhà đương cục Việt Nam. Nhưng từ năm 1956, phía Trung Quốc tìm cách nắm số dân sang làm ăn ở Trình Tường bằng cách cung cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải, và nhiều hàng khác, đưa họ vào công xã Ðồng Tâm thuộc huyện Ðông Hưng, khu tự trị Choang – Quảng Tây. Nhà đương cục Trung Quốc ngiễm nhiên biến một vùng lãnh thổ Việt Nam, dài 6 km, sâu hơn 1.300 m thành sở hữu tập thể của một công xã Trung Quốc. Từ đó, họ đuổi những người Việt Nam đã nhiều đời nay làm ăn sinh sống ở Trình Tường đi nơi khác, đặt đường dây điện thoại, tự cho phép đi tuần tra khu vực nầy, đơn phương sửa lại đường biên gới sang đồi Khâu Thúc của Việt Nam. Tiếp đó họ đã gây ra rất nhiều vụ hành hung, bắt cóc công an vũ trang Việt Nam đi tuần tra theo đường biên giới lịch sử và họ phá hoại hoa mầu của nhân dân địa phương. Trình Tường không phải là một trường hợp riêng lẻ, còn đến trên 40 điểm khác mà phía Trung Quốc tranh lấn với thủ đoạn tương tự như xã Thanh Loa, huyện Cao Lộc (mốc 25,26,27) ở Lạng Sơn, Khẳm Khau (mốc 17-19), ở Cao Bằng, Tả Lũng, Làn Phù Phìn, Minh Tân (mốc 14) ở Hà Tuyên, khu vực xã Nam Chay (mốc 2-3) ờ Hoàng Liên Sơn với chiều dài hơn 4 Km, sâu hơn 1 Km; diện tích hơn 300 héc-ta."
Phía TQ lý luận : đất của VN sao có dân TQ sinh sống ?
Cũng có nơi trên vùng biên giới, luận điệu của TQ là : nơi nào cho « chuối xanh » thì nơi đó là đất của TQ, vì chỉ có dân TQ mới trồng chuối ! Lại có nơi tử sĩ TQ chết lại chôn bên đất của VN. Đất này trở thành đất Tàu ! Nếu không phải đất của TQ tại sao có nghĩa trang của người Hoa ?
Cứ như thế mà đất của VN trở thành đất của TQ.
6. Vụ tổng Đèo Lương, thác Bản Giốc và núi Khấu Mai
6.1. Tổng Đèo Lương xưa thuộc tỉnh Cao Bằng, ở phía đông bắc tỉnh tỉnh này, phía nam là Thủy Khẩu, phía bắc có sông Qui Xuân chảy vào, diện tích khoảng 300km², mất vào tay TQ nhân dịp phân giới 1893-1894. Trên bản đồ hiện nay là phần lõm vào ở đông bắc Cao Bằng. Trường hợp mất được ghi vắn tắt qua nhật ký của Ủy ban Phân giới vùng Quảng Tây, trong chiến dịch phân giới 1893-1894. Theo đó, phía TQ đã lấy tên của một số làng xã của phía TQ để đặt tên cho các làng xã thuộc tổng Đèo Lương. Song song đó, phía TQ vận động với Đặc sứ Pháp tại Bắc Kinh để lấy vùng đất này, mặt khác, họ tìm cách kéo dài thì giờ, vì đây là điểm yếu của Pháp : càng kéo dài thì việc cắm mốc giới càng thêm tốn kém mà ngân sách của mẫu quốc dành cho Bắc Kỳ ngày thêm hạn chế. Cuối cùng, Pháp nhượng bộ trên vấn đề Ðèo-Lương nhưng với điều kiện phải được Pháp phải được trái núi quan trọng về chiến lược : Khấu Mai (TQ gọi là Khấu Mai Lĩnh, VN gọi là Cao May).
Như thế Việt Nam mất đất Đèo Lương vì lý do âm mưu đổi tên các làng mạc của TQ và sự nhượng bộ của Pháp. Việc hoán đổi tên các địa danh để chiếm lấy đất ở đây đã được sử dụng trước đó nhiều lần.
6.2. Thác Bản Giốc: Theo các chi tiết đã ghi trong các biên bản, nhật ký phân giới, sông Qui Xuân (Qui Thuận, Quây Sơn) chảy vào phía bắc của tổng Đèo Lương. Vào lúc phân giới thác Bản Giốc nằm sâu trong lãnh thổ của Việt Nam. Nếu không mất Đèo Lương thì sẽ không bao giờ có tranh chấp chủ quyền tại Bản Giốc vào những năm sau này, vì nó sẽ nằm sâu vào lãnh thổ VN.
Xem thêm ở đây :
http://nhantuantruong.blogspot.fr/2013/10/au-la-su-that-cua-thac-ban-gioc.html
6.3. Núi Khấu Mai : Núi này hoàn toàn thuộc Việt Nam theo biên giới lịch sử. Trong dịp phân giới và cắm mốc lại, núi này được trao đổi với tổng Đèo Lương : VN giữ núi Khấu Mai, TQ được tổng Đèo Lương. Nhưng phía TQ vẫn ngang ngược nhứt định dành nó về phía họ. Núi này khoảng giữa Bình Nhi và Thủy Khẩu, được cắm mốc mang số 15 trên biên bản phân giới ngày 19 tháng 6 năm 1894 ký kết giữa ông Galliéni và ông Thái Hy Bân. Núi này có vị trí chiến lược quan trọng, địa hình thuận tiện cho quân đội đóng quân, có đường mòn từ phía Việt Nam dẫn lên đỉnh. Trên núi có 3 nguồn nước, đất tốt nên dân chúng khai thác trồng trọt, cây cối xinh tươi. Chiếm giữ được nó thì có thể kiểm soát được cả vùng Long Châu cho tới Bằng Tường.
Do phía TQ trì trệ, không cắm mốc, rốt cục phía Pháp lại nhưọng bộ. Cột mốc tại Khấu Mai cắm trên sườn núi phía đông, cách đỉnh 200m, chừa một góc nhỏ cho TQ. Ngoài ra, cột mốc 14 cắm dưới chân phía Ðông, cột 16 dưới chân phía Tây-Bắc để xác định rõ ràng chủ quyền hai bên về ngọn núi.
Nhưng TQ lại không tôn trọng, xâm chiếm đất vùng này sau khi cắm mốc. Năm 1936, cột mốc số 14 bis được cắm thêm. Theo biên bản vị trí cột 14 bis xác định như sau : 580 mètres Sud-ouest de la borne 14 ; Est, Sud-Est de la borne 15. Cột 14 bis cách cột 14 là 580m về phía Tây-Nam ; cột ở phía Ðông Ðông-Nam cột số 15.
Nhưng chủ quyền núi Khấu Mai rất có thể bị phía Trung Quốc đặt vấn đề vào đầu năm 2001. Theo tài liệu của Nguyễn Chí Trung, thư ký riêng của ông Lê Khả Phiêu, viết ngày 21 tháng 7 năm 2002, được Câu Lạc Bộ Dân chủ đăng trên mạng Ý Kiến ngày 25 tháng 11 năm 2003 dưới nhan đề «Tài liệu mật của Đảng CSVN », nội dung cho biết Giang Trạch Dân, lúc đó là lãnh đạo tối cao Trung Quốc, muốn dành núi Khấu Mai cho Trung Quốc. Lập luận phía TQ đặt lại vấn đề : Cột mốc không cắm trên đỉnh núi vì trước kia do công nhân đưa cột mốc không tới đỉnh núi đành bỏ lai sườn núi, bây giờ đưa cột mốc lên đỉnh. Toàn bộ 314 cột mốc cắm trên biên giới Việt-Trung, chỉ có cột mốt cắm tại Khấu Mai là cắm ở sườn núi thay vì đỉnh núi.
Hình trên: vị trí núi Khấu Mai theo bản đồ của Sở Địa Dư Đông dương (SGI). Nguồn: CAOM.
Theo bản đồ của Hiệp ước phân định biên giới ký ngày 25 tháng 12 năm 1999 (hình dưới), khu vực núi Khấu Mai được phân định lại. Cột mốc được đưa lên đỉnh trong khi đường biên giới cũng bị thay đổi (so với bản đồ SGI).
7. Hoàng Sa và Trường Sa
Công hàm ngoại giao của Đặc Sứ Thanh triều tại Paris, gởi chính phủ Pháp ngày 29 tháng 9 năm 1932, tài liệu đính kèm cuốn La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys của bà Monique Chemillier-Gendreau, nguyên văn đoạn liên hệ công ước 1887, Vịnh Bắc Việt và Hoàng Sa:
« Légation de la République Chinoise.
29 Septembre 1932.
La Légation de la République Chinoise en France, d’ordre de son Gouvernement, a l’honneur de transmettre la réponse de ce dernier à la Note que le Ministère des Affaires Etrangères a bien voulu lui adresser le 4 Janvier 1932 au sujet de l’Archipel des Iles Paracels.
Les Iles Si-Chao-Tchuin-Tao désignées aussi sous le nom de Tsi-Tcheou-Yang appelées en langue étrangère Iles Paracels, et au Nord-Est desquelles sont les Iles Ton-Chao, se trouvent dans la mer territoriale de la Province du Kouang-Tong (South China Sea); elles forment un des groupes de l’ensemble des Iles de la Mer de Chine du Sud qui font partie intégrante de la mer territoriale de la Province du Kouang-Tong.
D’Après les Rapports établis en l’An XVII de la République Chinoise (1926) au sujet des Si-Chao-Tchuin-Tao (Paracels), rédigés par Mr. Shen-Pung-Fei, Président de la Commission d’enquête sur ces Iles, et les dossiers concernant également ces Iles établis par le Bureau de l’Industrie de la Province Kouang-Tong, ces Iles s’étendent du 110° 13 au 112° 47 de longitude Est; grandes et petites, elle sont au nombre de plus d’une vingtaine, la plupart d’entre elles sont des banc de sable incultes, les autres, une dizaine, sont formés de rochers, huit forment réellement des Iles. Des deux groupes Est et Ouest, celui de Est est appelé “Amphitrite”, celui de l’Ouest “Croissant”.Ces groupes se trouvent à 145 miles marins de l’Ile de Hai-Nan et forment la partie du territoire chinois située le plus au sud.
La clause 3 de la Convention relative à la Délimitation de la Frontière entre la Chine et le Tonkin, signée à Pékin le 26 Juin 1887 stipule qu’au Kouang-Tong, il est entendu que les points contestés qui sont situés à l’Est et au Nord-Est de Monkai, au-delà de la frontière telle qu’elle a été fixée par la Commission de Délimitation, sont attribués à la Chine. Les Iles qui sont à l’Est de la ligne Nord-Sud passant par la pointe orientale de l’ile de T’cha-Kou et formant la frontière sont également attribuées à la Chine. Les Iles Kou-Teou et les autres petites Iles qui sont à l’Ouest de cette ligne appartiennent à l’Annam.
Le point de départ des frontière entre l’Indochine et la province chinoise du Kouang-Tong est Tchou-Chan situé à 21° 30 de latitude Nord et 108° 2 de longitude Est. D’après les sus-dites stipulation, le littoral de l’Indochine se trouvant à l’Ouest de Tchou-Chan; de ce point, en descendant la côte vers le Sud, de toutes façons les Iles Paracels se trouvent très loin à l’Est de cette ligne, et sont séparées du littoral Indochinois par l’Ile de Hai-Nam. On voit aisément, d’après leur position géographique à quel pays elles doivent être rattachées…»
Các ý chính tạm dịch như sau : Quần đảo Si-Chao-Tchuin-Tao (Tây Sa Quần Đảo), còn được gọi dưới tên Tsi-Tcheou-Yang (Thất Châu Dương), nước ngoài gọi là Paracels, phía đông bắc có quần đảo Ton-Chao (Đông Đảo, tức Pratas), tọa lạc trong lãnh hải tỉnh Quảng Ðông; là một bộ phận của lãnh hải tỉnh Quảng-Ðông… các đảo nầy rải rác trải từ 110° 13 đến 112° 47 kinh tuyến Ðông; gồm khoảng 20 đảo lớn nhỏ, phần lớn là những dải cát hoang, một số khác, khoảng 10 đảo do đá tạo nên, 8 đảo thực sự là đảo, chia làm hai nhóm Ðông và Tây. Nhóm Ðông gọi là nhóm “Amphitrite”, nhóm Tây gọi là nhóm “Croissant”. Hai nhóm nầy cách đảo Hải Nam 145 dặm biển và tạo thành vùng lãnh thổ cực Nam của Trung Quốc.
Ðiều 3 của Công ước Phân định Biên giới giữa Trung Hoa và Tonkin, ký tại Bắc Kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887 qui định rằng ở Quảng Ðông, hai bên thỏa thuận rằng các vùng tranh chấp ở phía đông và đông bắc Móng Cái thì thuộc về Trung Quốc. Những đảo ở về phía Ðông của đường bắc nam đi qua đông điểm của đảo Trà Cổ và tạo thành đường biênngiới thì chúng cũng thuộc về Trung Quốc. Những đảo Keou-Teou (Trà Cổ) và những đảo nhỏ khác ở về phía Tây của đường nầy thì thuộc về Việt Nam.
Ðiểm bắt đầu của biên giới giữa Indochine và tỉnh Quảng Ðông là Trúc Sơn có tọa-độ 21° 30 vĩ tuyến Bắc và 108° 2 kinh tuyến Ðông. Theo những gì ghi nhận trên đây, bờ biển Indochine ở về phía Tây của Trúc Sơn. Từ điểm nầy, đi xuống về phía Nam, bằng cách nào thì quần đảo Paracels cũng ở về phía Ðông của đường nầy và giữa quần đảo nầy với bờ biển Indichine thì có đảo Hải Nam ngăn chặn. Người ta thấy dễ dàng, theo vị trí địa lý của Paracels, là nó thuộc về nước nào.
Các điểm ghi nhận như sau :
Hoàng Sa có tên Tàu là Thất Châu Dương.
Hoàng Sa là lãnh thổ vùng cực nam của TQ.
Đường kinh tuyến từ đông điểm Trà Cổ của công ước phân định biên giới 26-6-1887 cho phép TQ có chủ quyền tất cả các đảo ở phía đông đường kinh tuyến này.
Ta thấy điều ngang ngược thứ nhất ở đây của TQ là diễn giải Công ước 1887 theo lối có lợi cho mình. Thực ra công ước 1886 có tên là « Convention Relative à la Délimitation de la Frontière entre la Chine et le Tonkin ». Phía TQ đã thay đổi Tonkin (Bắc Kỳ) thành ra Indochine, cho là công ước này phân định biên giới giữa TQ và Indochine, nhằm dành quần đảo HS về TQ. Đường kinh tuyến đi qua đông điểm đảo Trà Cổ 105° 43′ kinh độ Đông Paris chỉ có hiệu lực trong vịnh Bắc Việt, vì công ước chỉ phân định các tỉnh Nam Hoa với Bắc Việt, nó chỉ có giá trị ở đây và không có giá trị khi ra ngoài vịnh Bắc Việt.
Điều thứ hai, tên Thất Châu Dương là có thật, nhưng theo thư tịch của TQ thì nó là tên của các đảo gần Văn Xương, đảo Hải Nam. TQ lấy tên này đặt cho HS của VN, lập lại thủ thuật mà họ đã dành đất của VN như ở Tụ Long, Kiến Duyên, Bát Tràng, Đèo Lương v.v… Tức là lấy tên một địa danh của TQ đặt cho các vùng lãnh thổ của VN rồi hô hoán lên nói là đất của TQ.
Thứ ba, chính TQ thời đó cũng đã khẳng định HS là vùng đất cực nam của TQ. Ta thấy sự ngang ngược của TQ hiện nay đã lan xuống các đảo Trường Sa.
Nhưng chưa hết. Hồ sơ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố ngày 30 tháng 1 năm 1980 viết rằng : “Trung Quốc là nước đầu tiên đã khám phá, khai khẩn, thâu huê lợi và quản lý các quần đảo gọi là Xisha (Tây Sa) và Nansha (Nam Sa). Từ ngàn năm nay, những nhà nước Trung Quốc đã liên tục đặt quyền pháp trên những nơi đây. Dân tộc Trung Hoa là người chủ hai quần đảo nầy không thể phản biện”.
Điểm ghi nhận đầu tiên là các bộ « chính sử » của Trung Quốc thì không bộ nào viết Tây Sa và Nam Sa (hay dưới các tên khác) thuộc về Trung Quốc.
Tài liệu chứng minh của hồ sơ Bộ Ngoại giao Trung Quốc là hai tác phẩm Nan Zhou Yi Wu Zhi (Nam Châu Dị Vật Chí của Vạn Chấn) và Funanzhuan (Phù Nam Truyện của Khang Thái từ thời Tam Quốc (220-265) đồng thời một danh sách 6 tác phẩm từ đời Tống đến đời Thanh (thế kỷ 11 đến thế kỷ thứ 19) : Mong Liang Lu (Mộng Lương Lục), Qao Yi Zhi Luc (Ðảo Di Chí Lược), Dong Xi Yang Kao (Ðông Tây Dương Khảo), Shun Feng Xiang Song (Thuận Phong Tương Tống), Zhi Nan Zheng Fa (Chỉ Nam Chinh Pháp), Hai Guo Wen Jian Lu (Hải Quốc Văn Kiến Lục). Hồ sơ này xác nhận rằng những tác phẩm trên đây « kể lại những cuộc hành trình của người Hoa đi đến Tây Sa và Nam Sa và những hoạt động sản xuất mà họ đã thực hiện từ hơn ngàn năm » và « đã đặt tên lần lượt cho hai quần đảo nầy với những tên sau đây : Jiurulozhou (Cửu Nhũ Loa Châu), Shitang (Thạnh Ðường), Qianlishitang (Thiên Lý Thạnh Ðường, Wanlishitang (Vạn Lý Thạnh Ðường), Changsha (Trường Sa), Qianlichangsha (Thiên Lý Trường-Sa), Wanlichangsha (Vạn Lý Trường Sa) » v.v…
Các bộ sách đã dẫn đã được nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân cho là không phải là chính sử trong sử liệu Trung Quốc, talawas, 11-12-2007. Ông Phạm Hoàng Quân cũng dẫn chứng bằng các sử liệu của chính TQ là lãnh thổ của TQ chưa bao giờ vượt khỏi đảo Hải Nam
Ngoài ra, học giả Lãng Hồ Nguyễn Khắc Kham, trong Tập san Sử Địa số 29 (tháng 1 đến tháng 3 năm 1975), một tài liệu gối đầu của mọi người VN muốn nghiên cứu HS và TS, cũng đã đã bẻ gẩy mọi lý lẽ của các học giả TQ đưa ra để chứng minh HS là của TQ.
Mặt khác, bộ Nhị thập tứ sử (bộ chính sử được tất cả các triều đại Trung Quốc thừa nhận) tức từ Sử ký ghi chép từ Thượng cổ đến Tần, Hán, cho đến Minh sử; và Thanh sử cảo soạn thời Dân Quốc, ở các mục Địa Dư chí, tất cả đều không đề cập đến các hòn đảo ở xa hơn đất Nhai Châu, Quỳnh Châu, tức Hải Nam ngày nay.
Như thế, các tên Cửu Nhũ Loa Châu, Thạnh Ðường, Thiên Lý Thạnh Ðường, Vạn Lý Thạnh Ðường, Trường Sa, Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Trường Sav.v… là từ đâu mà « gắn » vào HS và TS của VN ?
Theo TS Nguyễn Quang Ngọc thì các địa danh Vạn Lý Trường Sa, Thạch Đường, Thiên Lý Thạch Đường, Cữu Nhũ Loa Châu… chỉ là những địa danh phiếm, chỉ các vùng biển, đảo nguy hiểm, không thuộc TQ.
Cũng theo nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân trong tài liệu dẫn trên: «xem trong Quỳnh Châu phủ chí (tức tương đương Hải Nam tỉnh chí ngày nay) do Quận thú Tiêu Khánh Thực tổ chức biên soạn vào năm Càn Long thứ 39 (1774), trong quyển 3, phần Dư địa chí, mục Cương vực, thấy chép: “… nam tắc Chiêm Thành; tây tắc Chân Lạp, Giao Chỉ; đông tắc Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường; bắc tiếp Lôi Châu phủ Từ Văn huyện” (nam là Chiêm Thành; tây là Chân Lạp, Giao Chỉ; đông là Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường; bắc giáp huyện Từ Văn phủ Lôi Châu). Đoạn văn hành chính về tứ cận này cho thấy rằng, Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Đường (tức Tây Sa và Nam Sa theo cách nghĩ và gọi của Trung Quốc ngày nay) còn là một nơi chưa rõ chủ quyền và ngoài lãnh hải Trung Quốc mà lạinằm ở hướng Đông của Hải Nam.»
Hồ sơ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã trích dẫn một đọan văn và cho là của Vũ Kinh Tổng Yếu, viết dưới triều Renzong (1023-1063) Bắc Tống : Triều đình Bắc Tống « ra lệnh cho quân đội hoàng gia tuần tiễu xây dựng ở Guangnan (Quảng Nam, hiện thời là Quảng Ðông) một nơi đóng quân nhằm vào việc tuần-tiễu trên biển » và « xây-dựng những chiến-thuyền bằng loại có sống giữa (đao ngư – navire à quille)»… « Nếu người ta theo gió Ðông để cho thuyền đi về hướng Tây-Nam, mất 7 ngày để từ Tunmenshan (Ðồn Môn Sơn) đến Jiuruluozhou (Cửu Nhũ Loa Châu)».
Cho rằng Jiuruluozhou (Cửu Nhũ Loa Châu) là « quần đảo Tây-Sa », hồ sơ trên kết luận rằng « triều đình Bắc Tống đã hành sử dụng chủ quyền của mình ở quần đảo Tây Sa », và « hải quân Trung Quốc đã tuần tiễu cho đến Tây Sa ».
Nhưng sự thật thì hoàn toàn không đúng như thế. Wu Jing Zong Yao (Vũ Kinh Tổng Yếu) đã viết như sau :
« … ra lệnh cho quân đội hoàng gia thực hiện việc tuần tiễu, xây dựng một trại quân cho việc tuần tiễu trên biển tại hai bến tàu ở phía Ðông và phía Tây khoảng cách là 280 trượng, cách Tunmenshan (Ðồn Môn Sơn) 200 lí và xây dựng những chiến thuyền bằng loại có sống giữa (đao ngư).
Nếu người ta theo gió Ðông để cho thuyền đi về hướng Tây Nam, mất 7 ngày để đi từ Tunmenshan (Ðồn Môn Sơn) đến Jiuruluoshou (Cửu Nhũ Loa Châu), thêm 3 ngày nữa thì đến Pulaoshan (Bất Lao Sơn thuộc Huanzhou Hoàn-Châu), sau khi đi thêm 300 lí về hướng Nam thì tới Lingshandong (Lăng Sơn Ðông). Ở phía Tây-Nam của nơi này thì có các nước Dashifu, Sizi (Tích-Lan), Tianzhu (Thiên-Trúc). Không thể ước-lượng được khoảng cách ».
Đồn Môn Sơn là cửa sông Châu Giang, Quảng Đông. Bất Lao Sơn là cù lao Chàm, Huanzhou là nước Chiêm Thành, Dashifu, hay Dashi, theo một sách cổ của Trung-Hoa, đó chỉ một vương-quốc thời Trung-Cổ ở trong vịnh Persique ; Sizi là Srilanka (Tích-Lan) ; Tianzhu là Ấn Ðộ (theo các sách của Tangshu, Songshi, Gugintushuzisheng).
Như thế, phần trích dẫn ghi trên của Vũ Kinh Tổng Yếu, đoạn ghi lại việc hoàng đế Bắc Tống ra lệnh « xây dựng một trại quân dùng vào việc tuần tiễu trên biển » ở bến Quảng Châu, một đoạn khác mô tả vị trí địa lý của trại quân ghi trên, và một đoạn khác nữa mô tả hải trình đi từ bến Quảng Châu cho đến Ấn Ðộ Dương. Không thấy chỗ nào ghi rằng hải quân Trung Hoa đi tuần tiễu cho đến quần đảo « Xisha » (Tây Sa).
Hồ sơ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã cắt ra một đoạn để dán vào đó một đoạn khác, nhằm ngụy tạo bằng chứng để giành lấy Hoàng Sa của Việt Nam.
Nhưng ý nghĩa chính là TQ đặt cho HS và TS một cái tên ở một địa danh nào đó, sau đó đánh chiếm HS và TS của VN với danh nghĩa lấy lại lãnh thổ. Tuy nhiên, vì bịa ra, do đó tài liệu của TQ có nhiều mâu thuẫn không chấp nhận được.
8. Ý nghĩa của bản đồ 9 gạch
Tấm bản đồ này xuất hiện không biết chính xác từ khi nào (có nhiều nguồn nói khác nhau : xuất hiện năm 1914, 1920, 1930 ; thậm chí có nguồn nói xuất hiện từ thế kỷ 19 !) nhưng chắc chắn cũng là một thủ thuật cổ điển của TQ như dàn dựng các tên giả, hay hoán đổi tên các làng v.v… để chiếm đất của VN. TQ dựng ra tên Tiểu Đổ Chú Hà để lấy đất Tụ Long, dựng ngọn Tiểu Phân Mao Lãnh cướp đất Kiến Duyên và Bát Tràng, hoán đổi tên làng xã để chiếm đất Đèo Lương, vẽ bản đồ để chiếm thác Bản Giốc, xây đường rày xe lửa để chiếm đất Nam Quan… Chắc chắn tấm bản đồ chín gạch này dựng lên cũng để chiếm biển và đảo của VN, nó thay đổi nội dung tùy theo khả năng và tham vọng bành trướng của TQ.
Nghiên cứu bản đồ 2 ( trích từ cuốn La Chine, Une Puissance Encerclé), xem mục tham khảo) tức bản đồ xác định lãnh thổ và ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc trước năm 1840. Ta thấy có 21 vùng đất trước 1840 thuộc Trung Hoa hay thần phục Trung Hoa (ghi theo A, B, C…), đó là :
A: đảo Sakhaline, nhường cho Nga và Nhật. B : Vùng đất Đông Bắc, phía Đông Hắc Long Giang (Amour), nhượng cho Nga theo hiệp ước Bắc-Kinh năm 1860. C : Vùng đất Đông Bắc, phía Tây Hắc Long Giang, nhượng cho Nga năm 1858 theo hiệp ước Aigun. D : Mông Cổ, tuyên bố độc lập năm 1924. E : Cộng Hòa Touva, tuyên bố độc lập năm 1921, sau đó sát nhập vào Liên Xô năm 1944. F : Vùng đất Tây Bắc, nhượng cho Nga qua hiệp ước Tacheng 1864. G : Pamir, bị Nga và Anh bí mật lấy chia với nhau năm 1896. H : Népal, độc lập năm 1898, sau đó trở thành thuộc địa Anh. J : Sikkim, Anh chiếm năm 1889. K : Bhoutan, độc lập năm 1865, sau đó trở thành thuộc địa Anh. L : Vùng biên giới Tây Bắc, bị Anh chiếm. M : Assam, Miến Điện nhượng cho Anh năm 1826. N : Miến Điện, thuộc địa Anh năm 1886. O : Đảo Andaman, thuộc địa Anh P : Thái-Lan, độc lập nhưng dưới sự kiểm soát của Anh và Pháp năm 1904. Q : Đông Dương, thuộc địa Pháp năm 1885. R : Mã Lai (phần lục địa), thuộc địa Anh năm 1985. S : Quần đảo Sulu, thuộc địa Anh năm 1895. T : Đài Loan, nhượng cho Nhật qua hiệp ước Simonoseki năm 1895. U : Quần đảo Điếu Ngư, Nhật chiếm năm 1910. V : Triều Tiên, độc lập năm 1895, trở thành thuộc-địa Nhật năm 1910.
Hai bản đồ này biểu lộ tham vọng của TQ bắt đâu từ thập niên 50. Bản đồ 2 được chính thức đưa vào học trình của chương trình trung học của bộ giáo dục Trung Quốc từ năm 1950 trong khi bản đồ chữ U thì không.
Về ý nghĩa của bản đồ chữ U, chắc chắn vào thời đó chỉ nhằm xác định các đảo trong khu vực chữ U thì thuộc về TQ. Bởi vì quan niệm về chủ quyền vùng biển chỉ mới có sau thế chiến thứ hai, qua các công ước về Biển 1958 và 1982. Trước đó thế giới chỉ có quan niệm về “lãnh hải” 3 hải lý, là tầm đạn đại bác.
Khái niệm về biển lịch sử cũng khá mới, nhưng sau đó không được thế giới chấp nhận, do đó ý nghĩa biển lịch sử chữ U của TQ không thuyết phục cộng đồng thế giới.
Tham vọng về chủ quyền trên biển của TQ bắt đầu khi nào cũng không chính xác, nhưng chắc chắn chỉ mới biểu lộ sau này. Nhiều tài liệu trên thế giới đều xác nhận rằng dân tộc Hán là một dân tộc “quay lưng ra biển, hướng vô lục địa”. Để ý bản đồ 2, vào các thập niên 40-50, TQ xem Đài Loan là vùng đã bị mất. Đảo này, chỉ sát nhập vào TQ chậm trễ dưới thời nhà Thanh, do đề đốc Thi Lang. Cho rằng TQ có chủ quyền tại HS&TS, sau đó có chủ quyền vùng biển trên bản đồ 9 gạch, thì không có gì phi lý hơn.
Ở miền Nam VN ít ai nghe nói bản đồ 9 gạch. Năm 1974, sau khi chiếm HS, cũng không nghe nói đến bản đồ chữ U. Tuy nhiên, theo tài liệu của GS Tạ Quốc Tuấn, «Vài nhận xét về lập luận của hai chính phủ Bắc Kinh và Đài Loan» viết: năm 1974, « lần đầu tiên Trung-Cộng đã công-khai bộc-lộ rõ nguyên-nhân thầm-kín thúc-đẩy việc tranh-chấp chủ-quyền trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa: đó là nguồn tài-nguyên thiên-nhiên ở vùng này. Thực vậy, bản tuyên-bố ngày 11.1.1974 có câu: Các tài-nguyên thiên-nhiên trong các vùng biển quanh các quần-đảo này cũng thuộc về Trung-quốc. ».Cũng từ tài liệu này, ngày 4.2.1974, Bộ Ngoại-giao Trung-Cộng lại ra một bản tuyên-bố « Chính-phủ Trung-hoa đã nhiều lần tuyên-bố là các quần-đảo Nam-sa, Tây-sa, Trung-sa và Đông-sa tất cả đều là phần lãnh-thổ của Trung-quốc và nước Cộng-hòa Nhân-dân Trung-hoa có chủ-quyền bất-khả tranh-nghị đối với các quần-đảo này và các hải-khu chung quanh các quần-đảo đó. ». Tài liệu đề cập đến từ ngữ « hải khu », tức khu vực biển, nhưng không hề đề cập bản đồ chữ U.
Tập san Sử Địa 29, Đặc khảo về HS và TS, xuất bản tháng 1 năm 1975, không có dòng nào nói đến bản đồ chữ U. Tập tài liệu La Souveraineté sur les Archipels Paracels và Spratleys của bà Monique Chemillier-Gendreau in năm 1996 cũng không có dòng nào nói đến tấm bản đồ này, ngoài hai bản đồ đính kèm như là bằng chứng của TQ đòi hỏi vùng biển.
Theo tài liệu của ông Cao Xuân Thự, Chuyên viên Vụ Biển, Ban Biên giới của Chính phủ, công bố nhân dịp hội thảo Biển Đông hồi tháng 3 năm 2009, có ghi chép : Ngày 30 tháng 7 năm 1977 : « Tám ngày sau khi ông Đặng Tiểu Bình chính thức khôi phục lại địa vị, trong một tuyên bố chính sách đối ngoại của TQ, ngoại trưởng Hoàng Hoa nói : lãnh thổ của TQ chạy xa mãi về phía nam, tận bãi Tăng Mẫu gần Bornéo của Mã Lai…, các người có thể thăm dò chúng nếu các người muốn, nhưng khi thời cơ đến, chúng tôi sẽ thu hồi chúng hoàn toàn, không cần phải thuơng lượng gì hết vì các quần đảo đó có nguồn gốc thuộc về Trung Quốc… ». Đoạn này cũng không nói đến biển chữ U mà nói các quần đảo đó có nguồn gốc thuộc về Trung Quốc…
Trên báo chí, sách vở và tài liệu nước ngoài, bắt đầu đề cập đến tranh chấp biển Biển Đông từ thập niên 80. Nguyên nhân vào năm 1980, công ty Pertamina của Nam Dương khám phá mỏ dầu ở vùng đảo Natuna, bản đồ chữ U tái xuất hiện bao gồm thêm đảo Natuna. Việc này phía Nam Dương phản đối mạnh, báo chí có nhắc nhở. Ý nghĩa của bản đồ chữ U cũng chỉ giới hạn về chủ quyền các đảo thuộc TQ.
Về văn kiện chính thức, tác giả viết bài chưa đọc hay thấy tài liệu nào từ phía TQ chính thức dẫn tấm bản đồ chữ U, ngoại trừ công hàm ngày 7 và 8 tháng năm 2009 vừa qua để phản đối hai hồ sơ của VN mà Mã Lai (nộp chung).
Như thế, tạm kết luận rằng, bản đồ chữ U từ 1982 trở về trước có ý nghĩa : TQ có chủ quyền các đảo trong khu vực đó (đồng thời giả thuyết về vùng nước lịch sử của TQ).
Từ 1982 trở đi thì bản đồ chữ U có ý nghĩa : khẳng định khu vực biển của TQ. Điều này có thể hiểu vì năm 1982 Luật Quốc tế về Biển ra đời, theo đó, các đảo cũng có hiệu lực như trên đất liền về lãnh hải, vùng kinh tế độc quyền, thềm lục địa. TQ đã thông qua công ước này năm 1996. Do đó quan niệm chủ quyền về biển chữ U của TQ, sau 1982, do hiệu lực của HS và TS (vì TQ có chủ quyền ở HS và TS theo công hàm của ông Phạm Văn Đồng). Diện tích khu vực biển này co giãn tùy theo nhu cầu và đối tượng.
Giả thuyết về biển lịch sử của TQ khó đứng vững vì công ước về Biển 1982 không có khoản nào định nghĩa về biển lịch sử.
Nhưng TQ là bậc thầy về chiến lược; họ luôn úp úp, mở mở về ý nghĩa của bản đồ này, làm nhiều người không biết TQ muốn gì .
Sau khi TQ sát nhập đảo Natuna vào bản đồ chữ U, Nam Dương phản đối mạnh mẽ, đồng thời vũ trang mạnh. Đây là nước dông dân nhất khu vực Đông Nam Á và có quân lực mạnh nhất. Từ năm 2000 trở lại đây thì bản đồ chữ U loại trừ đảo Natuna, có nghĩa là TQ đã nhượng bộ. Thí dụ khác, bản đồ chữ U từ năm 1950 thì có thêm quần đảo Sulu, nhưng những năm sau này thì bản đồ này không bao gồm quần đảo này nữa.
Hình trên: Bản đồ tên gọi “Trung Quốc chính khu”, theo đó quần đảo Natuna của Indonésie bị TQ “chiếu tướng” bằng hai cái nháy “’”, để mở cho mọi người hiểu sao thì hiểu.
Như thế, biển chữ U của TQ có thể rất lớn nếu các nước chung quanh lo sợ. Nhưng sẽ rất nhỏ, hay không có gì, nếu các nước chung quanh không nhượng bộ.
TQ đã ký và thông qua Luật Quốc tế về Biển 1982, bản đồ chữ U hôm nay chỉ là minh họa, thay đổi tùy theo tương quan lực lượng, nhưng chắc chắn ý nghĩa của bản đồ chữ U sẽ được TQ giải thích theo luật Biển 1982 cho dư luận quốc tế lúc cần thiết.
7. Kết luận
Ta thấy từ Tiểu Đổ Chú Hà, Tiểu Phân Mao Lãnh, đền thờ Phục Ba, đất Đèo Lương, núi Khấu Mai, đất Nam Quan, điểm nối ray, thác Bản Giốc (sau này có thêm vụ chuối xanh, vì chỉ có người Hoa trồng chuối trên biên giới), người Hoa thì đất của người Hoa, nghĩa trang người Hoa thì đất của người Hoa v.v… cho đến Thất Châu Dương, Cửu Nhũ Loa Châu, Thạnh Ðường, Thiên Lý Thạnh Ðường, Vạn Lý Thạnh Ðường, Trường Sa, Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Trường Sa, bản đồ chín gạch… đều do phía TQ đặt ra để chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển của VN. Tất cả rõ ràng chỉ là những bịa đặt lếu láo, rất sơ đẳng, lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, chỉ gạt được những người không biết. Đều trớ trêu là cái luận điệu sơ đẳng bịa đặt lặp đi lặp lại này đã giành được đất của dân tộc Việt Nam không biết bao nhiêu lần. Và có thể nó vẫn tiếp tục lường gạt được người Việt Nam.
Phải chăng dân tộc ta có vấn đề ?
Đến hôm nay vẫn còn học giả VN, có người vẫn ảnh hưởng hỏa mù của TQ qua các ý nghĩa của biển chữ U. Có người vẫn không dám đối diện với ý nghĩa của công hàm ông Phạm Văn Đồng, kể cả không muốn biết TQ đã có các âm mưu gì và sẽ có các âm mưu gì ?…
Khi hiểu cặn kẽ, ta có thể có các biện pháp thích ứng : Muốn đối phó với « biển lịch sử » của TQ, VN phải khẳng định chủ quyền HS và TS, khẳng định các đảo này có hiệu lực về hải phận ZEE và thềm lục địa theo định nghĩa của Luật Biển 1982. Bản đồ lịch sử chín gạch chữ U của TQ sẽ bị hiệu lực HS và TS hóa giải không còn cái gạch nào. Xem trường hợp đảo Natuna của Nam Dương thì rõ rệt. Nhưng muốn vậy, trước tiên VN phải mạnh và phải vô hiệu hóa công hàm của ông Phạm Văn Đồng. Trường hợp TQ trả đất Tụ Long cho VN năm 1724 cũng vậy, là do VN mạnh chứ không hề do hoàng đế anh minh nào cả. Nếu VN thời đó « yếu » (như hôm nay), chắc chắn Tụ Long đã mất trước khi Pháp vào VN.
Phương pháp để hóa giải bản đồ chín gạch, nếu TQ dưạ theo Luật Biển 1982 (giả thuyết này hầu như là 99%), phía VN cũng phải khẳng định chủ quyền các đảo HS&TS đồng thời đòi hỏi hải phận và thềm lục địa của các đảo theo Luật Biển 1982. Và muốn làm như thế cũng phải vô hiệu hóa trước tiên công hàm ông Phạm Văn Đồng.
Chính sách giữ nước của Đảng CSVN hiện nay có khuynh hướng hủy bỏ hiệu lực của các đảo HS và TS, tức tự hủy hoại thân thể, tự đốt nhà của mình. VN quá « yếu », không thể bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ VN, mặt khác, công hàm ông Phạm Văn Đồng đã tuyên bố HS&TS là của TQ, đòi lại sao được ? Do đó nhà nước CSVN nhất định để mất HS&TS chứ không tìm cách hóa giải công hàm này thông qua một quá trình dân chủ hóa và hòa giải dân tộc.
Dân tộc VN đổ máu làm gì để giữ những cục đá không giá trị đó nữa ?
Hồ sơ công bố của VN về thềm lục địa vừa qua đã cho thấy rõ rệt chính sách của nhà nước. Có thể có những « options » khác, có lợi cho VN, nhưng chưa chắc đảng CSVN sẽ chọn. Rất có thể quần đảo HS và TS sẽ không có hiệu lực, giá trị gì hết ! Đây là một quyết định nhất thời cứu nguy cho Đảng CSVN nhưng rất nguy hiểm, vì nó có ảnh hưởng không thể đảo ngược, làm mất vĩnh viễn quyền lợi của dân tộc VN tại HS và TS.
Vào các năm 1860 thời Tự Đức, lúc Pháp đã đặt chân ở Nam Kỳ và lăm le ra Bắc Kỳ, tình cảnh người dân Bắc Kỳ hết sức dửng dưng. Lúc quân Pháp chiếm thành Hà Nội thì dân chúng đổ ra coi, như là trò vui. Triều đình đối xử với dân như tôi mọi, như kẻ thù địch thì người dân xem việc Pháp chiếm đất là việc của nhà vua. Việt Nam thời nay không khác Việt Nam thời Tự Đức. Đất nước gặp lúc mạt vận thì dân tình nó như thế.
Nhưng nhìn lại như thế cho thấy giải pháp duy nhất để giữ nước hiện nay là « dân chủ hóa » đất nước. Đảng CSVN không thể vì quyền lợi của một nhóm người mà hy sinh quyền lợi lớn lao của cả dân tộc.
Tham khảo :
Tài liệu internet :
Tạ Quốc Tuấn, Vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Vài nhận xét về lập luận của hai chính phủ Bắc Kinh và Đài Loan
Phạm Hoàng Quân, Tây Sa và Nam Sa trong sử liệu Trung Quốc, talawas, 11-12-2007
Nguyễn Quang Ngọc, Địa danh Trung Quốc các quần đảo giữa Biển Đông, Lịch sử một thế kỷ chuyển đổi, www.hoangsa.org
Cao Xuân Thự, Điểm lại những sự kiện chính trong cuộc tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và mấy nhận xét về cách gây xung đột về biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, www.hoangsa.org
Tài liệu đóng tập :
Tập san Sử Địa số 29, Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, Văn Nghệ Khai Trí, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1975
Chemillier-Gendreau, Monique. La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys. Harmattan, 1996
Fourniau, Charles. Vietnam Domination coloniale et résistance nationale 1858-1914. Les Indes Savantes, 2002
Brisset, Vincent. La Chine, Une Puissance Encerclé ?, IRIS, 2002
Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến naycủa NXB Sự Thật, năm 1979
Tài liệu thuộc văn khố CAOM, Pháp :
Deloustal. Les Mines de Tu-Long. AOM. Cote B 2899 ou B 6326.
Dévéria, La Frontière Sino-Annamite. Descriptions Géographique et Ethnographique. AOM, cote D 1198
Famin, Au Tonkin et sur la frontière du Quang-Si. SOM, cote C 43.
Dr Néïs , Sur Les Frontières Du Tonkin – Le Tour Du Monde, năm 1887. CAOM. BIB, SOM, Cote 20.543.
Les Frontières du VietNam. Histoire des Frontières de la péninsule Indochinoise. Paris, l’ Harmattan. 1989. AOM. Cote 42934.
Ministère des Affaires Etrangères de la RSVN 1981. Les Archipels Hoang-Sa et Truong-Sa.
Hồ sơ Phân định Biên giới 1886-1894 : Cartons : 65353, 65354, 65355, 65356, 65357, 65358, 65359, 65360. Indo, GGI.
Tài liệu Văn khố Bộ Ngoại giao Pháp :
Hồ sơ « Công ước Pháp-Thanh 1887 ».