dimanche 12 décembre 2021

Phê bình sự lý giải của điệp viên Frank Snepp về lý do “vì sao Mỹ bỏ rơi VNCH”.

 

Phê bình sự lý giải của điệp viên Frank Snepp về lý do “vì sao Mỹ bỏ rơi VNCH”.

Tôi có theo dõi các bài phỏng vấn điệp viên Frank Snepp do BBC thực hiện. Bài cuối cùng nói về nguyên nhân “vì sao Mỹ bỏ rơi VNCH”. 

Theo Frank Snepp: “Kissinger và Nixon cùng nghĩ ra chiến lược bỏ rơi Việt Nam mà trên thực tế họ đã thực hiện. Năm 1969, Kissinger và Nixon đến nhậm chức tại Nhà Trắng. Họ là một cặp đôi, trong đó Nixon là tổng thống. Họ hứa đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, đó là lời hứa với người dân Hoa Kỳ khi tranh cử”. 

Tôi chia sẻ nhận xét này của Frank Snepp. Nixon đắc cử tổng thống Mỹ tháng 9 năm  1968, nhậm chức tháng giêng 1969, nhờ các hứa hẹn sẽ “kết thúc chiến tranh VN” và đem lại “hòa bình trong danh dự” cho nước Mỹ. 

Sau cuộc “tổng tiến công và nổi dậy” trong Tết Mậu thân 1968, quần chúng Mỹ đa số chống chiến tranh VN cũng như dư luận thế giới không thuận lợi cho sự can thiệp của quân đội Mỹ vào nội tình Việt Nam. 

Học thuyết Nixon ra đời năm 1969, với “quân sư” là Henry Kissinger. Mục tiêu học thuyết là “hòa Trung chống Xô”, sau khi nhận thấy có sự rạn nứt nghiêm trọng trong khối cộng sản giữa TQ và LX (do những xung đột trên vùng biên giới).

Tuy nhiên tôi không chia sẻ với Frank Snepp về ý kiến Nixon “cống hiến VN cho Bắc kinh để TQ cởi mở hơn và làm bạn với Hoa kỳ”.

Thực tế chỉ ra rằng nếu Nixon muốn có “một khoảng thời gian hợp lý” để rút khỏi VN thì Mao chỉ muốn một “khoảng cách hợp lý” giữa hai vùng ảnh hưởng Mỹ-Trung. 

Mâu thuẩn Trung-Xô khiến Bắc kinh dễ dãi trong cách tiếp cận với Mỹ. Trong khi Trung ương đảng CSVN khai sinh chính sách “đi dây” giữa hai “đồng chí anh em LX và TQ”. 

Từ 1965 đến 1969 viện trợ quân sự của LX cho miền Bắc từ 4 đến 5 tỉ đô la, trong khi viện trợ của TQ chỉ còn 20% con số viện trợ của LX. LX giúp cho Bắc Việt nhiều thứ vũ khí tối tân hơn vũ khí của Mỹ viện trợ cho VNCH. Miền Bắc tách dần khỏi quĩ đạo TQ, trở thành vệ tinh của LX, trong khi đó Lào và Kampuchia trung lập. TQ tưởng chừng không còn điểm nắm tại Đông Dương. 

Từ sau Hiệp định Genève 1954, Bắc kinh không hề muốn Bắc VN thành công trong sự nghiệp “giải phóng miền Nam” mà chỉ muốn một VN bị phân chia, miền Bắc phục tùng TQ. TQ chỉ muốn VN (và Triều tiên) không bao giờ thống nhứt. Một VN (và Triều tiên) chia rẽ và chiến tranh luôn có lợi cho Bắc Kinh.

Sau biến cố Mậu thân Hội nghị Paris được mở (tháng 5-1968). TQ lo ngại Washington và Moscou thỏa thuận một “giải pháp VN” mà TQ đứng ngoài. TQ tìm mọi cách phá hoại Hội nghị bằng cách thúc đẩy CS Bắc Việt gia tăng cường độ chiến tranh.

Trần Nghị, bộ trưởng bộ ngoại giao TQ gặp đại diện VN tháng 10-1968 đe dọa chấm dứt ngoại giao nếu VN “chấp nhận 4 bên đàm phán”. TQ cho rằng như thế là giúp Johnson thắng cử, làm kéo dài sự “đô hộ của dân miền Nam dưới gót giầy đế quốc Mỹ !”. Năm 1969 TQ đặt vấn đề với CSVN : Thế VN muốn đánh hay hòa để TQ tính việc viện trợ ? Viện trợ của TQ năm 1969 sụt 20% so với năm 1968.

Tức là do lo ngại đàm phán của ba nước Việt-Xô-Mỹ có thể gây bất lợi, TQ thúc đẩy Hà Nội lên thang chiến tranh. TQ cho rằng VN dùng viện trợ của TQ đánh Mỹ để nhằm mục tiêu đàm phán với Mỹ thì viện trợ của TQ không có ý nghĩa.

Hiển nhiên quyết tâm của TQ khiến Nixon không thể thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”. 

Washington cũng nắm được ý đồ của TQ. Mỹ nhận thấy không thể thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” nếu không có sự đồng thuận của TQ. Vì thế con đường “Việt Nam hóa chiến tranh” của Nixon bắt buộc phải đi qua Bắc Kinh. 

Qua các cuộc đi đêm và ngoại giao “bóng bàn” với Washington, Bắc Kinh thiết lập lại cầu nối với Mỹ. Từ đó ta thấy Bắc kinh làm áp lực hiệu quả lên Hà nội để Mỹ rút quân khỏi VN bình an. Đổi lại, Mỹ nhìn nhận Bắc Kinh là đại diện chính thức của TQ tại LHQ, thay vì nhà nước Quốc Dân đảng ở Đài Bắc, đồng thời hứa giúp TQ phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật.

Mỹ không thể “cống hiến” VN cho TQ, nói như Frank Snepp. VN có vào lọt vòng ảnh hưởng của TQ hay không còn tùy thuộc vào sức mạnh và ý chí đảng CSVN cũng như tương quan lực lượng giữa TQ và LX đối với Bắc VN. Không phải chỉ có duy nhứt TQ là “đỡ đầu” cho Bắc VN.

Thực tế cho thấy Học thuyết Nixon đã “ứng nghiệm”. Cộng sản lục địa thay chỗ Quốc dân đảng ở LHQ và Mỹ rút quân một cách “an toàn” ra khỏi VN. 

Thực tế cũng cho thấy sau 1973, “khi đồng minh tháo chạy” khỏi miền Nam VN, đảng CSVN hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của Bắc kinh và ngả vào LX. Sau 1975 VN trở thành “tên xung kích vô sản sừng sỏ” vùng Đông Nam Á của đế quốc cộng sản Liên Xô.

Và thực tế cho thấy cam kết của Nixon về chiến tranh VN không đem lại cho Mỹ “danh dự”, cũng như cho Châu Á một nền “hòa bình”, đúng như tựa đề quyển sách “No peace,  No honor” của Larry Berman.   

Tức là sự lý giải của Frank Snepp về việc Mỹ “nhượng” VN cho TQ là hoàn toàn không có căn cứ. Chỉ có Nixon và Kissinger “bán đứng” VNCH cho CS Bắc Việt mà thôi.

 

Điều mâu thuẩn trong sự lý giải của Frank Snepp về nguyên nhân sự sụp đổ nhanh chóng của VNCH. 

Frank Snepp nói rằng : “Tôi nghĩ những người bạn Việt Nam thân yêu của tôi không đúng khi đổ lỗi sự sụp đổ nhanh chóng của VNCH cho Hoa Kỳ… Việc thất trận của VNCH đến từ những lý do gần nhà hơn.”

Những lý do “gần nhà”, theo ông Frank Snepp: “thứ nhất, viện trợ không thể đến kịp thời để cứu miền Nam Việt Nam. Thứ hai, hệ thống hậu cần của VNCH đã bị tham nhũng lũng đoạn, khó có thể tiếp thu và triển khai thêm vật liệu một cách hiệu quả. Và, cuối cùng, các cấp tư lệnh Nam Việt Nam vì lo xa không muốn để vũ khí thặng dư gần tiền tuyến, phòng khi Cộng sản tràn vào, mà cất chúng ở xa. Vì vậy, khi cộng sản tấn công vào Quân khu 1, họ cạn kiệt đạn dược và không có một kho dự trữ đủ gần để có thể đến lấy, trước khi bị Cộng sản tiến chiếm.


Mâu thuẩn của Frank Snepp là ông đã nhìn nhận “viện trợ (Mỹ cho VNCH) không thể đến kịp thời” và ông cũng biết rõ ý định của Nixon và Kissinger là “bỏ VN”. 

Viện trợ đến trễ, cũng như bịnh nhân nghẹt thở mà oxygen đến trễ. Thì có khác gì cúp viện trợ đâu ?


Khi đã quyết định “bỏ VN” và cúp viện trợ thì mọi lý lẽ nhằm qui trách nhiệm sụp đổ VNCH do nội bộ VNCH đều chỉ là ngụy biện. Quốc hội Mỹ thời đó có câu “không bỏ thêm một xu cho chiến tranh VN”.

Mỹ bỏ Đài loan nhưng dầu sao xứ này có luật Taiwan Relations Act bảo vệ. Còn Mỹ bỏ VNCH đơn thuần như bỏ một cái áo rách. 


Thời điểm trước “chiến dịch mùa xuân 1975”, bắt đầu tháng 12 năm 1974, số đạn dược, súng ống, xăng dầu, xe cộ… của VNCH còn lại là bao nhiêu ? Đủ để quân VNCH “cầm cự” bao lâu ?


Lúc TQ đánh HS (tháng giêng năm 1974), phi cơ VNCH đã không có xăng để bay ra bỏ bom. Khi Mỹ “tháo chạy” năm 1973 xe cộ bỏ lại hàng hà sa số. Hầu hết đều “bỏ xó”, không sử dụng được vì không có xăng dầu và phụ tùng thay thế. 


Tại các tiền đồn, từ cuối năm 1974, pháo binh của VNCH đã không đủ đạn để bắn giải vây hay yễm trợ cho các đơn vị hành quân. 


Frank Snepp cũng nói rằng: “Công bằng mà nói, Nixon không có lựa chọn nào khác vì Hoa Kỳ và VNCH đã không đánh bại được Bắc Việt”


Cho rằng ngay cả lính Mỹ và lính VNCH hợp lại cũng “không đánh bại” CSVN mà điều này chưa chắc. Đánh “kiểu Mỹ”, từ VN qua Irak cho tới Afghanistan… Mỹ đều thua. 


Thực tế cho thấy, hoàn toàn khác với lý giải của Frank Snepp, quân VNCH không thua, họ chỉ “buông súng” khi đã hết đạn (và khi có lịnh từ Dương Văn Minh). Bộ đội miền Bắc hay lính cộng hòa miền Nam đều là người Việt. Họ đều có “lá gan” như nhau. Mỹ “tháo chạy” năm 1973. Quân VNCH một mình chống chõi lại đạo quân mà Frank Snepp thú nhận Mỹ “không đánh lại”, cho tới tháng Tư năm 1975. 


Còn lý do Frank Snepp cho rằng VNCH sụp đổ vì lý do hàng ngũ lãnh đạo VNCH “tham nhũng”. 


Đa số lãnh đạo thượng tầng của VNCH đều chạy thoát và tị nạn bên Mỹ. Ông Frank Snepp có thể chỉ ra ai là người qua Mỹ sống bằng tiền tham nhũng ?


Mỹ thua và bỏ chạy vì nhiều lý do mà lý do chính là Mỹ đánh giặc kiểu “nhà giàu”. VNCH sụp đổ vì bị Mỹ ép “đánh giặc theo kiểu nhà giàu”. 


Mỹ rút Afghanistan, quân Mỹ còn ở Kaboul mà quân chính phủ thân Mỹ đã “buông súng” và Taliban đã chiếm toàn bộ lãnh thổ. Mỹ thoát thân ra khỏi Kaboul dưới họng súng “bảo vệ” của quân Taliban mà Mỹ thề thốt phải tiêu diệt.


Mỹ sẽ tiếp tục thua nếu vẫn tiếp tục đánh giặc kiểu quăng tiền ra cửa sổ.


Vì sao Mỹ thua ở chiến tranh VN ?


Theo tôi, Mỹ thua, kéo theo VNCH sụp đổ, có hai lý do chính và một lý do phụ. 


Lý do thứ nhứt, Mỹ thua vì không thể xây dựng được quốc gia VNCH (Nation and State Building). 


Sau 1954 Mỹ thay thế Pháp vào miền Nam với danh nghĩa giúp VNCH “Xây dựng Quốc gia - State Building”. 


Ý định xây dựng một quốc gia tên gọi South Viet Nam của Mỹ, có thể gọi là Nam Việt Cộng hòa quốc, hay Nam Việt Dân quốc, với ranh giới, lãnh thổ và dân chúng xác định từ vĩ tuyến 17, là một “quốc gia thất bại”, ngay từ trong ý định. 


Hiệp định Genève 1954 là một hiệp ước giữa Pháp và Việt minh nhưng Hội nghị Genève 1954 là một Hội nghị quốc tế (tương tự Hội nghị San Francisco 1951), có giá trị pháp lý “ràng buộc”. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị được các đại cường bảo kê. Điều khoản quan trọng là: VN là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhứ ba miền Bắc, Trung, Nam và toàn vẹn lãnh thổ. Vĩ tuyến 17 chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời. Trong mọi trường hợp không thể diễn giải nó như là ranh giới chính trị”. 


Mỹ và VNCH không nhìn nhận mọi văn bản của Hội nghị Genève. Vấn đề là Mỹ và VNCH “đồng sàng dị mộng”.


Mỹ quan niệm VNCH là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, với lãnh thổ, dân chúng và ranh giới được xác định từ vĩ tuyến 17. 


Nhưng quan điểm của VNCH, khi phản đối Hiệp định Genève 1954, là chống phân chia lãnh thổ, tức đối nghịch với lập trường của Mỹ.


Nỗ lực của Mỹ “xây dựng quốc gia Nam Viet nam” có thể kiểm nhận qua tập tài liệu “Why Vietnam ?” của The White House, Washington, D.C., 20 août 1965 (từ nay gọi là tài liệu Why Vietnam?). Hồ sơ này có thể coi là tập “sách trắng” của Mỹ nhằm giải thích lý do, trước dư luận quốc tế và nhân dân Mỹ, vì sao người Mỹ can thiệp vào chiến tranh VN.  


Từ năm 1960, qua những bức thư Tổng thống Eisenhower gởi ông Diệm, ta thấy người Mỹ đã có quan niệm miền Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Quốc gia đó tên gọi “South Vietnam”. Tổng thống Eisenhower cảnh báo ông Diệm bằng thư riêng ngày 26 tháng 10 năm 1960: “cộng sản miền Bắc đã và đang sử dụng vũ lực để khuynh đảo chính trị và phá hoại nền tự do của quốc gia South Vietnam”. 

Sang đến đời tổng thống Kennedy, cũng theo tài liệu “Why Vietnam?”, dẫn lá thư ngày 14 tháng 12 năm 1961 của TT Kennedy đã gởi cho ông Diệm, nội dung cảnh báo: “các cuộc tấn công bằng vũ lực hay các cuộc khủng bố chống lại nhân dân và chính quyền trên đất nước của quí ngài trong thời gian qua được sự ủng hộ và lãnh đạo của ngoại bang là cộng sản Hà Nội”. 

Cũng trong tập tài liệu đã dẫn, tháng tư năm 1965, TT Johnson còn đi xa hơn trong lập luận VNCH là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”: “Miền bắc VN đã tấn công một quốc gia độc lập có chủ quyền là miền Nam VN”. 

Nhiều lần tập tài liệu trích dẫn ý kiến lãnh đạo Mỹ, theo đó Mỹ đổ bộ vào VN  “không có một tham vọng nào về lãnh thổ” mà chỉ bảo vệ “quyền” của nhân dân miền Nam Việt Nam. “Quyền” này thể hiện qua sự “lựa chọn tương lai của dân tộc VN bằng lá phiếu và các cuộc bầu cử tự do”. 

Tài liệu cũng dẫn những cam kết của các lãnh đạo Mỹ: “Đến khi nào mà Mỹ còn có thể ngăn cản, thì không có một thế lực nào có thể khuất phục dân tộc Nam Việt Nam bằng vũ lực hay bằng khủng bố”. 

Người Mỹ cố gắng xây dựng “quốc gia Nam Việt nam”, sao cho sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc, ở các điều “quyền được can dự vào chiến tranh”, điều 51 về “quyền tự vệ chính đáng”, và giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. 

Nhưng Mỹ và VNCH “đồng sàng dị mộng”. Hiến pháp VNCH đến ngày cuối cùng vẫn khẳng định lãnh thổ VN từ Nam quan đến Cà mau. 

Mỹ ký Hiệp định Paris 1973, khẳng định Mỹ nhìn nhận hiệu lực của Hội nghị Genève 1954. Tức là Mỹ nhìn nhận “quốc gia VN độc lập, thống nhứt ba miền lãnh thổ bất khả phân chia” và “vĩ tuyến 17 chỉ là ranh giới tạm thời sử dụng cho quân sự. Trong mọi trường hợp không thể diễn giải như là đường ranh giới chính trị”. 

Chiến tranh VN từ đó trở thành một cuộc “nội chiến”. 

Từ khi Mỹ can dự vào chiến tranh VN, dư luận thế giới dựa vào nội dung Hội nghị Genève 1954 lên án Mỹ “xâm lược”. Mọi nỗ lực của Mỹ xây dựng “quốc gia” tên gọi “Nam Việt Dân quốc” hay “Nam Việt cộng hòa quốc” đều thất bại.

Không thuyết phục được các lãnh đạo VNCH tuyên bố “quốc gia độc lập”, từ ông Diệm đến ông Thiệu. Điều này dẫn đến việc Mỹ thua về pháp lý. Thất bại về quân sự và chính trị chỉ còn là thời gian. 

Quân đội Mỹ không còn lý do chính đáng nào để ở lại VN.

Thất bại trong việc “xây dựng quốc gia” VNCH. Mỹ không còn ở VN, ngọn cờ “mặt trận giải phóng” mất đi hiệu lực cũng như lời hô hào “chống Mỹ cứu nước” không còn thuyết phục. 

Nhưng miền Bắc vẫn còn có lý do “thống nhứt đất nước” để chiếm miền Nam. Mỹ rút những chiến tranh VN vẫn còn lý do tiếp diễn.



Thứ hai, Mỹ không tạo được lý do hợp pháp (và thuyết phục) - jus ad bellum - để can dự vào chiến tranh VN. 


Điều này trực tiếp đến từ việc thất bại xây dựng quốc gia “South Viet Nam - Nam Việt cộng hòa quốc”.


Jus ad Bellum. Chiến tranh Irak Mỹ lấy lý do Saddam Hussein “làm bom nguyên tử” để can thiệp. Chiến tranh Afghanistan Mỹ can dự vì biến cố 11 tháng 9. Chiến tranh Triều tiên, Mỹ dẫn đầu quân đội đồng minh “cứu giá” Nam hàn qua một Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ.


Chiến tranh VN, quân Mỹ hàng trăm ngàn người đổ bộ vô bãi biển Đà nẵng năm 1965 mà không thông qua bất kỳ một kết ước nào với chính phủ VNCH. Chuyện xảy ra giữa lúc các tướng lãnh VNCH đang tranh giành quyền lực ở Sài gòn. Người Mỹ mượn tay “lính đánh mướn” giết ông Diệm 1963. Từ thời điểm ông Diệm chết cho đến năm 1965 VNCH như rắn không đầu. 


Cũng không có cuộc trưng cầu dân ý nào, cho dầu “lấy lệ”, để “hợp thức hóa” sự hiện diện quân Mỹ ở miền Nam. 


Sự hiện diện “không lý do chính đáng” của quân Mỹ ở miền VN khiến quân Mỹ trở thành một thứ “quân xâm lược”, không chỉ dưới mắt của phe cộng sản mà cả ở phe đồng minh của Mỹ.

 

Sự hiện diện của Mỹ đã tạo cho VNDCCH có lý do chính đáng thành lập Mặt trận giải phóng miền Nam. 


MTGPMN có lý do chính đáng để “đánh Mỹ xâm lược”. 


Tại sao Bắc Hàn không thành lập mặt trận “đánh Mỹ cứu nước” giải phóng Nam hàn ? Tại sao dân Nhật không nổi dậy lập mặt trận “chống quân Mỹ xâm lược” ? 


Đơn giản là tại vì sự hiện diện của quân Mỹ ở các nơi đây là “chính đáng”, được bảo kê bằng những hiệp ước ký kết giữa hai chính phủ hợp pháp và có giá trị “quốc tế”.


Rốt cục “đồng minh tháo chạy” năm 1973. Mỹ vô VN không theo nguyên tắc pháp lý nào thì khi Mỹ rời khỏi VN cũng không có gì ràng buộc. 


Chiến tranh VN, từ cuộc chiến “quốc tế”, nước này xâm lược nước kia, trở thành một cuộc “nội chiến”. 


Và khi Mỹ nhìn nhận chiến tranh VN là cuộc “nội chiến”, sau khi Mỹ rút, các bên VN có quyền đòi Mỹ “bồi thường chiến tranh”, vì những tàn phá vật chất cũng như sinh mạng do bom đạn của Mỹ gây ra trên đất nước VN.


Sai lầm từ đầu là người Mỹ luôn coi VNCH là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”, với lãnh thổ, dân chúng và đường ranh giới được xác định là vĩ tuyến 17. 


Mỹ không nhìn nhận Hiệp định Genève 1954 và không công nhận VNDCCH. Mỹ thiết lập bang giao với VN từ năm 1950.


Chiến tranh VN dưới mắt người Mỹ là “chiến tranh quốc tế”, xảy ra giữa hai quốc gia VNVH và VNDCCH. Quốc gia VNDCCH “xâm lược” VNCH.


Nhưng Mỹ đổ quân vô Nam VN, một “quốc gia độc lập có chủ quyền”, như vô nhà không chủ. Mỹ “ngồi xổm” lên Hiến chương LHQ, một thứ “luật quốc tế” do Mỹ và đồng minh soạn thảo ra. 


Rốt cục Mỹ phải nhìn nhận hiệu lực Hiệp định Genève 1954. Tức là Mỹ đã thua. Chiến tranh VN không phải là chiến tranh quốc tế, nước này xâm lăng nước kia. Quyền “tự vệ đa phương” theo Hiến chương LHQ không được xác lập. 


“Jus ad Bellum - quyền được can dự vào chiến tranh” của Mỹ trong chiến tranh VN không thể chứng minh. 


Mỹ bỏ chạy và không có một lý do (hợp lệ) nào để trở lại VN nữa. Ngay cả khi VNCH sụp đổ. Bởi vì chuyện VNCH trụ được theo thời gian hay sụp đổ tức thời là chuyện “nội bộ” của VN.


Thứ ba, do yếu tố nội tại VNCH.

Các lãnh đạo VNCH, từ ông Diệm đến ông Thiệu, đều không có ý thức rằng khi “tư cách pháp nhân quốc gia” của “Repuplic of South Viet Nam” hay Việt Nam cộng hòa chưa được xác lập. VNCH không thể ngang hàng ký kết với Mỹ các hiệp ước an ninh hỗ tương, đã đành. VNCH cũng không thể gia nhập bất cứ một “liên minh quân sự” nào cả.


Liên minh SEATO, nói là “Liên phòng Đông Nam Á”. VNCH thuộc Đông Nam Á, mà chiến tranh VN nguyên nhân thành lập SEATO. Nhưng VNCH không được gia nhập liên minh này.  


Tư cách gia nhập các liên minh quân sự là “pháp nhân quốc gia” mà tư cách pháp nhân này VNCH còn khiếm khuyết.


Hiến chương LHQ cho phép một “quốc gia không phải là thành viên LHQ” trở thành thành viên của Tòa Công lý quốc tế hay gia nhập vào các tổ chức quốc tế thuộc LHQ.


Suốt cuộc chiến 54-75 VNCH không hề được Hiến chương LHQ bảo vệ. 


VNCH cũng không thể trở thành “thành viên” của Tòa Công lý quốc tế. Vụ TQ đánh chiếm HS mà VNCH bó tay, không thể kiện cáo đi đâu được. Đơn giản vì tư cách pháp nhân “quốc gia” của VNCH chưa được xác định.


Mỹ đổ quân vào miền Nam, dưới cái nhìn của nhiều người Việt là chống làn sóng đỏ cộng sản bằng cách biến miền Nam thành một “thành trì” bảo vệ “tự do”. 


Quốc gia không có thì “chính nghĩa quốc gia” không có. 


Cuộc chiến Bắc Nam chưa bao giờ quân dân miền Nam được giáo dục để “bảo vệ lãnh thổ quốc gia” hay để “bảo vệ quốc gia chống cộng sản xâm lăng”. Khẩu hiệu “Tổ quốc - Danh dự - Trách nhiệm” hay và đẹp biết bao nhiêu. Vấn đề là VNCH không xác định được “tổ quốc” của VNCH là gì ? Nếu Tổ quốc VNCH bao gồm luôn miền Bắc thì mọi hô hào, mọi vận động chống VC đều hoài công. Người ta chỉ nghe các khẩu hiệu hết sức là vô nghĩa như “chống cộng”, “bảo vệ tự do” hoặc các biểu ngữ “bêu xấu cộng sản”. 


Không ăn thua! chế nhạo rằng “bảy thằng Việt cộng đu nhánh đu đủ không gảy”... là không ăn thua. 


Khi người nông dân tiếp tế cho VC thì trước sau gì VNCH cũng thua. VC là “giặc”, tiếp tế cho VC là “giặc”. Rốt cục toàn bộ nông dân VN trở thành kẻ thù. Sai lầm! Bom đạn nào có thể tiêu diệt hết nông dân VN ?


Mà không chỉ người nông dân. Mọi tầng lớp trong xã hội như sinh viên học sinh, nhà báo, nhà tu, chính trị gia v.v… đều có người ủng hộ VC và chống VNCH.


Hiến pháp VNCH luôn khẳng định lãnh thổ VN “từ Nam quan đến mũi Cà mau” thì tổ quốc VNCH cũng là tổ quốc chung cho mọi người VN, bao gồm miền Bắc. VNCH không phải, hay chưa phải là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”. 


Đã đành VNCH là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế trực thuộc LHQ. Vấn đề là VNCH “kế thừa” vị thế thành viên này từ Quốc Gia Việt nam (hành lập năm 1949), với lãnh thổ từ Nam quan đến Cà mau. Tức đại diện luôn cho miền Bắc.


Điều mà lãnh đạo VNCH không chịu nhìn thấy là khi còn quan niệm lãnh thổ từ Nam quan đến Cà mau thì miền Bắc có quyền trương ngọn cờ “thống nhứt đất nước”. Mỹ rút chỉ giải quyết được vấn đề “chống Mỹ cứu nước” (mà không giải quyết được chủ trương “thống nhứt đất nước” của miền Bắc). VNCH sụp đổ chỉ là sớm hay muộn. 


Lãnh đạo VNCH đa số xuất thân miền Bắc vĩ tuyến 17. Không ai muốn VNCH độc lập. Những người này không thấy Đông và Tây Đức, hai quốc gia độc lập, đã thống nhứt ra sao.


Tình hình “tự trói tay chân” như vậy mà đến 30 tháng Tư năm 1975 VNCH mới sụp đổ. Quân VNCH phải là quân thiện chiến hàng đầu thế giới. 

 

 

 

 


mardi 2 novembre 2021

Nhân tròn một năm Quyết định 1722/QD/TTg về “danh mục bí mật độ tuyệt mật của đảng” có hiệu lực...

 Một năm sau khi Quyết định 1722/QĐ/TTG của Thủ tướng có hiệu lực, từ ngày 3 tháng 11 năm 2020, ta có thể kiểm chứng lại trên mặt báo chí: sự im lặng toàn diện trên các vấn đề thuộc phạm vi an ninh quốc gia, như các vấn đề về biên giới, về chủ quyền lãnh thổ, hải đảo cũng như về hải phận quốc gia… 

Quyết định về "danh mục bí mật nhà nước độ tuyệt mật của đảng" đã “khóa miệng” tất cả. 

“Danh mục bí mật nhà nước độ tuyệt mật của đảng” gồm có các "quyết định, kết luận, báo cáo, kế hoạch, đề án, phương án, tờ trình, công văn của Trung ương Đảng về chiến lược đối ngoại liên quan đến an ninh quốc gia, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ đối ngoại của đảng CSVN với các đảng, các nước lớn, các nước láng giềng về vấn đề biên giới lãnh thổ, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo, thềm lục địa của VN".

Câu "dân biết, dân làm, dân kiểm tra" từ nay cần phải xét lại. Mọi ý kiến của dân về các quyết định của đảng, nếu có liên quan đến chủ quyền biển đảo, an ninh quốc gia hay lãnh thổ biên giới, ngay cả khi các quyết định này làm thiệt hại lãnh thổ, hải phận hay tổn thương đến chủ quyền quốc gia. Người dân nào muốn "biết", muốn "bàn", muốn "kiểm tra" đều có thể vô tù.

Theo tôi đây là một quyết định cực kỳ nguy hiểm. Thứ nhứt, vì Qui định này vi phạm Hiến pháp. 

Điều 4 khoản 2 HP qui định:  “Đảng Cộng sản Việt Nam chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. 

Câu “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” truyền kỳ trong dân gian và trong hàng ngũ đảng viên không biết có từ bao nhiêu đời rồi. Câu này phản ảnh tinh thần của khoản 2 Điều 4 HP: nhân dân có quyền “giám sát” những sinh hoạt của đảng.

Quyết định 1722/QĐ/TTG của Thủ tướng vì vậy vi hiến, vì đã tước quyền giám sát của nhân dân. 

Ai chịu trách nhiệm về hành vi vi hiến này ?

Thứ hai, về tư cách pháp nhân của đảng CSVN. 

Rà soát lại từ nội dung Hiến pháp đến các văn bản, các bộ luật, các nghị định dưới luật v.v... của nước CHXHCNVN, ta không hề thấy bất kỳ điều luật nào, qui định nào… có mang một định nghĩa về “tư cách pháp nhân” của đảng CSVN trước pháp luật. 

Điều 4 khoản 1 Hiến pháp qui định đảng CSVN “là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Điều 4 khoản 3 qui định “các tổ chức của đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.  

HP chỉ qui định “đảng viên” và “các tổ chức của đảng” phải “hoạt động trong khuôn khổ của HP và pháp luật” mà thôi. Mà “đảng viên” và các “tổ chức của đảng” không phải là đảng.

Nói rằng “đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình”. Vấn đề là “nhân dân” là ai ? 

Ý chí của nhân dân trong một quốc gia thể hiện qua Hiến pháp và luật pháp. Một cá nhân, một tổ chức chính trị, một xí nghiệp sản xuất… trong một xã hội đều có “tư cách pháp nhân”. Tức là những người, những tổ chức, xí nghiệp... này có “trách nhiệm trước pháp luật”. 

Nhân dân là tất cả nhưng cũng không là ai cả. Chịu trách nhiệm trước nhân dân là không chịu trách nhiệm về bất cứ chuyện gì.

Lịch sử đảng CSVN từ khi thành lập (3-2-1930) đến nay trên 7 thập niên. Đảng này đã phạm vô số sai lầm gây chết chóc, đỗ vỡ cho hàng chục triệu người. Có một số lần đảng “sửa sai”. Nhưng tuyệt đối không có lần nào đảng “chịu trách nhiệm trước pháp luật”.

Đảng CSVN vì vậy là một tổ chức chính trị vô trách nhiệm trước pháp luật. Vì vậy đảng CSVN không có tư cách pháp nhân. 

Đảng nắm hết mọi quyền lực quốc gia mà không có một cơ quan hay một định chế pháp lý nào kiểm soát những hành vi của đảng. 

Bây giờ lại thêm Quyết định 1722 của Thủ tướng. Mọi ý định, mọi hành vi, mọi kế hoạch của đảng về các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, biển đảo lại được pháp luật quốc gia bảo mật ở chế độ cao nhứt.

Điều này cực kỳ nguy hiểm. Đảng có thể bán đất nhượng biển hay đưa đất nước vào vòng lệ thuộc ngoại bang mà đảng không có bất cứ một trách nhiệm nào trước pháp luật. 

Thứ ba, Trung ương đảng có phải là một “tổ chức của đảng” hay không ? 

Quyết định 1722 qui định các đặc quyền chỉ dành cho Trung nương đảng. Dĩ nhiên Trung ương đảng, ngay cả khi vị trí của bộ phận này ở đầu não của đảng, thì nó vẫn chỉ là một tổ chức của đảng. Tức là Trung ương đảng vẫn phải làm việc theo “hiến pháp và pháp luật”. 

Trung ương đảng, một bộ phận của đảng, ngoài việc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi của mình. Còn phải chịu sự kiểm sát của nhân dân, như nội dung của khoản 2 Điều 4 HP.

Quyết định 1722/QĐ/TTG như vậy vừa mâu thuẩn với luật, vừa vi hiến. 

Một năm đã qua ta đã thấy công an, tức bộ phận thi hành luật, đã áp dụng triệt để Quyết định này. Báo chí truyền thông, người dân… tuyệt đối im lặng về các hành vi, các ý định… của đảng đối với mọi vấn đề của đất nước. 

Ta có thể kết luận là cái gọi là “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” không phải là một nhà nước (State-Etat, Quốc gia) được xây dựng trên luật lệ (Etat de Droit).

Câu hỏi đặt ra, Quyết định này ban bố nhằm mục đích gì ? 

Che dấu ở chế độ "tuyệt mật", ngay cả ở mức độ "tờ trình", các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, các vấn đề biên giới, chủ quyền biển đảo… đảng CSVN muốn làm gì, hay có ý định làm gì ?

Về an ninh quốc gia, ta thấy sự cạnh tranh chiến lược giữa hai đại cường Mỹ và TQ khởi động từ khoảng một năm nay. Việc này gây ra những áp lực kinh tế, chính trị… trầm trọng lên các quốc gia, như buộc phải “chọn phe”, khiến các quốc gia ASEAN lâm vào cảnh lúng túng. Trên đe dưới búa, ASEAN chia rẽ, mỗi bên suy nghĩ mỗi hướng vì lợi ích kinh tế và chiến lược. 

Khu vực Ấn độ - Thái bình dương hiện gồm khoảng 50% dân số thế giới và nắm khoảng 40% GDP thế giới. Sự năng động về kinh tế của các quốc gia TQ, Ấn độ, Nhật, Nam hàn, Indonesia… (và có thể Mã lai, Thái lan, VN sau này) sẽ đưa GDP khu vực vượt qua Châu Âu và Mỹ chỉ vài năm tới (trước năm 2030). Thái độ của Mỹ ta đã biết rõ. Là sẽ cạnh tranh với TQ, không để TQ qua mặt. Còn thái độ của  Châu Âu ? Khối này sẽ sống chung hòa bình với sự trỗi dậy của TQ hay là đứng về phía Mỹ để giữ tư thế của mình ? 

Tiến bộ khoa học kỹ thuật của TQ giúp cho quốc phòng của nước này có những bước “nhảy vọt” ngoạn mục. Vụ thử hỏa tiễn “siêu thanh” (Match 5) ngoài khí quyển của TQ mới đây, mặc dầu Bắc kinh đính chính là “không có”. Nhưng việc đó đã dấy lên những lo ngại cho quan chức Mỹ. Ta cũng thấy TQ cho phát triển lực lượng hải quân với vận tốc kinh người. Mỗi năm TQ đóng tàu chiến tổng cộng trọng tải nhiều hơn toàn bộ hạm đội của Pháp. TQ cũng áp dụng tự động học (robotique) và truyền thông 5G cho quốc phòng, qua các drone bay trên không, lặn dưới biển… thứ có khả năng nhiễu loạn thông tin trên máy bay, tàu chiến, tàu ngầm của địch thủ. TQ còn cho chế tạo các robot thông minh nhân tạo (AI), mang các loại vũ khí có khả năng tự quyết định việc có nổ súng hay không... 

Ngoài ra quan hệ Đài loan và Bắc kinh từ hơn năm nay căng thẳng trở lại. Nhiều tuyên bố mang chất “diều hâu” của tập Cận Bình về khả năng “giải phóng Đài loan bằng vũ lực”. Mỹ đối phó lại bằng những biện pháp “phòng ngừa”, như bán vũ khí tự vệ cho Đài loan và cho thành lập Liên minh AUKUS.   

Không nghi ngờ khả năng của TQ có thể chiếm Đài loan vài năm tới. TQ có thể mở mặt trận “phi qui ước” với những loại vũ khí “chưa xác định lớp lang" như vừa nhắc trên để chế ngự các tuyến phong thủ của Đài loan. TQ cũng có thể áp dụng biện pháp chiến tranh tương tự, cho drone, cho robot đánh phá hệ thống phòng thủ của VN (và Phi, Mã lai…) để chiếm trọn các đảo ở TS.

Trong khi liên minh Anh, Úc, Mỹ mới thành hình, dĩ nhiên có mục tiêu bao vây TQ (và bảo vệ Đài loan ?). Từ miệng của TT J. Biden nói với TT M. Macron hôm trước bên lề G20 ở Ý, cho thấy có sự vụng về trong việc khai triển AUKUS.  

Khối ASEAN vốn lỏng lẽo nay càng chia rẽ. Một bên Singapour và Phi chính thức ủng hộ AUKUS. Một bên Mã lai và Indonesia ra mặt chống đối AUKUS. Nhìn bản đồ Ấn độ - Thái bình dương ta thấy khu vực ASEAN là “trung tâm”. AUKUS có thể biến các nước ASEAN đối đầu với nhau, khi xung đột hai bở eo biển Đào loan bùng nổ. 

ASEAN trở thành “chiến trường”, trên cái nhìn địa chiến lược từ liên minh AUKUS. 

TT Biden nói “vụng về” trong việc khai triển AUKUS là thể hiện đúng sự thật.

Đặc biệt liên quan đến VN. Vấn đề chủ quyền biển đảo, hải phận quốc gia qua “cuộc chiến công hàm”, xảy ra ở Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa từ cuối năm 2019

VN đã bị TQ “loại khỏi vòng chiến” vì đến nay VN không phản biện được công hàm CML/42/2020 ngày 17 tháng tư năm 2020 của TQ nộp lên văn phòng TTK LHQ. Nội dung công hàm này TQ cho rằng VN đã bị “estoppel”. TQ cho rằng VN đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS qua công hàm 14 tháng 9 năm 1958, cũng như thể hiện qua  nhiều bằng chứng khác như sách giáo khoa, bản đồ, báo chí v.v... VN bây giờ không thể “nói ngược”.

Thông lệ quốc tế, trước một vấn đề có liên quan đến quốc gia, buộc quốc gia phải lên tiếng, thì sự im lặng của quốc gia trong việc này có nghĩa là sự đồng thuận của quốc gia trên vấn đề đó.

Một năm rưỡi đã qua, VN hoàn toàn “im lặng” trước cáo buộc này của TQ.

Sự im lặng của VN phải chăng đảng CSVN muốn trả lại các đảo Trường Sa lại cho TQ đồng thời nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS, đúng như cam kết của công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng ?

Hay là đảng muốn che đậy quyết định "khai thác chung nhưng chủ quyền thuộc TQ" ở các vùng thềm lục địa của VN, như ở bãi Tư chính ? 

Quyết định 1722/QĐ/TTG của thủ tướng để làm gì, nếu không phải là để bịt miệng người dân trước các “âm mưu” chuyển nhượng chủ quyền về lãnh thổ và quyền chủ quyền hải phận quốc gia cho TQ ?

Ngoài ra còn vấn đề căng thẳng Mỹ-Trung. VN là quốc gia “trái độn” chịu sức ép của cả hai bên. Mọi quyết định hấp tấp của đảng CSVN về việc “chọn phe”, hay việc ủng hộ hay không ủng hộ AUKUS, đều có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đến sự an nguy của hàng trăm triệu con dân nước Việt. 

Theo phe TQ, hay theo Mỹ, VN đều trở thành mục tiêu tấn công, thành “chiến trường” của phe đối nghịch. 

Thế “lưỡng nan” của VN cần phải bình tĩnh tháo gỡ, bằng một sự “đồng thuận” cấp quốc gia, một thứ “hội nghị Diên hồng”, chớ không phải thuần túy do một quyết định của đảng. 

Lần nữa cho thấy sự nguy hiểm của Quyết định 1722 nhằm “bịt miệng” người dân. Đất nước VN là của dân tộc VN chớ không phải của riêng đảng CSVN. Đảng CSVN là “đầy tớ” của 100 triệu người dân VN không phải những người dân này là nô lệ của đảng.

Quyết định 1722/QD/TTg còn hiệu lực là nguy cơ đảng CSVN sẽ tham gia vào chiến tranh mà lãnh thổ VN là chiến trường. Quyết định 1722/QD/TTg còn hiệu lực là VN còn cận kề với đe dọa mất đất mất biển...