samedi 6 octobre 2012

Về giải thuởng « hòa giải và yêu thuơng » Trần Nhân Tông



Giải thuởng đầu tiên về « hòa giải và yêu thuơng », gọi là giải « Trần Nhân Tông », vừa được những người thành lập viện cùng tên, Tran Nhan Tong Academy thuộc đại học Harvard, tuyên bố sẽ trao cho bà Aung San Suu Kyi và Tổng thống Thein Sein của Miến Điện. Hai nhân vật trúng giải không thấy ai đến nhận giải, mà chỉ nghe báo chí VN nói sẽ nhận giải sau. Cũng không thấy dòng tin tức nào về giải thuởng này trên các trang báo quốc tế.

Bà Suu Kyi, một « gương mặt của thế gới », được giải Nobel Hòa Bình 1991, là một phụ nữ lỗi lạc và kiên cường đã thành công trong việc chống lại nền độc tài quân phiệt Miến Điện bằng phương pháp hòa bình bất bạo động, trong khi chính những tay quân phiệt này đã giết cha của bà, người hùng dựng nước Miến Điện là tướng Aung San năm 1947. Bà Suu Kyi đã bị tập đoàn độc tài quân phiệt Miến Điện bắt giam và quản chế tại gia từ năm 1989 đến năm 2010. Bà hiện đang lãnh đạo « Phong trào Quốc gia Dân chủ ».

Ông Thein Sein, đương kim tổng thống Miến Điện, được quốc hội bầu lên từ tháng 3 năm 2011, phù hợp với chương trình « dân chủ hóa trong kỹ luật » do nhóm quân phiệt đề xướng năm 2008. Theo nội dung chương trình, tập đoàn quân phiệt giải tán (tháng 3 năm 2011). Bà Suu Kyi được Thein Sein trả tự do. Phong Trào Quốc Gia Dân Chủ chính thức được hoạt động. Chương trình « dân chủ hóa trong kỹ luật » thành hình vì tập đoàn quân phiệt nhắm thấy không có khả năng để kiểm sóat toàn bộ quyền lực quốc gia, vì không thể cùng lúc vừa đối đầu với nhiều đe dọa và áp lực chính trị từ bên trong lẫn bên ngoài. Tiêu biểu là các lực lượng quân sự do các nhóm dân tộc thiểu số đòi lý khai ở các vùng biên giới. Sức ép của quốc tế, về chính trị, ngoại giao và kinh tế, làm chính quyền quân phiệt bị cô lập và kiệt quệ. Nhưng đáng ngại hơn cả là sự chống đối của người dân Miến, biểu hiện qua các cuộc nổi dậy (như Phật giáo) gần đây. Trong lúc trên thế giới đã hàng loạt xảy ra các cuộc cách mạng, các lãnh tụ độc tài, các nhà nước toàn trị lần lượt bị sụp đổ trong máu lửa.

Như thế, việc thả bà Suu Kyi chưa chắc là do kết quả của một chính sách đứng đắn của quốc gia về hòa giải dân tộc, mà có thể là một bước lui chiến thuật của tập đoàn quân phiệt. Hiện nay bà Suu Kyi chính thức trở lại chính trường, cùng với một số thủ lãnh chính trị thuộc « Phong Trào Quốc Gia Dân chủ », tham gia sinh hoạt Quốc Hội. Các hoạt động tiêu biểu của bà là mở các cuộc đối thoại với lãnh đạo các dân tộc thiểu số, hay lên tiếng yêu cầu các nước nới lệnh cấm vận đối với Miến Điện. Bà Suu Kyi cũng được phép xuất ngoại, sau hơn 20 năm bị giam cầm. Bà được các nước Tây phương trân trọng tiếp đón như là một « vật trân quí của nhân loại », hơn cả một vị nguyên thủ quốc gia. Bà được các nước trao cho những huân chương, những huy hiệu cao quí nhất.

Việc « Viện Trần Nhân Tông » trao giải « hòa giải và yêu thuơng » cho hai nhà lãnh đạo chính trị Miến Điện thù nghịch nhau từ mấy mươi năm, một bên đại diện cho người dân bị áp bức và một bên đại diện cho chế độ độc tài áp bức, bà Aung San Suu Kyi và Tổng thống Thein Sein, đáng lẽ cũng nên tuyên dương. Nhưng nếu xét lại các vấn đề từ bản chất, thì giải « Trần Nhân Tông » có nhiều vấn đề cần bàn thảo.

Viện Trần Nhân Tông – Tran Nhan Tong Academy, trực thuộc đại học Harvad của Hoa Kỳ, hiện do Giáo sư Thomas Patterson làm chủ tịch, nhưng người đề xướng (sáng lập) là ông Nguyễn Anh Tuấn, nguyên giám đốc sáng lập trang báo Vietnam Net. Ông này hiện đang học tập và nghiên cứu tại Harvard. Trần Nhân Tông là một vị vua VN nổi tiếng, đã đánh thắng đạo quân bách thắng Mông Cổ. Đường lối chính trị và ngoại giao của vua này ảnh hưởng tính « từ bi, hỉ xả » của nhà Phật. Cuối đời ông xuất gia, thành lập tông phái « Trúc Lâm Yên Tử ». Giải Trần Nhân Tông sẽ được phát hàng năm vào tháng 9. Nguyên tắc tuyển chọn, theo tin tức, « Giải thưởng sẽ được xét chọn hằng năm cho những người bằng hành động, ảnh hưởng của mình có những đóng góp nổi bật cho sự nghiệp hòa giải và yêu thương nhân loại, xây dựng tình hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc, tôn giáo giải quyết các mối xung đột, chấm dứt chiến tranh, những người đóng góp to lớn trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường sinh thái trên thế giới ».[i]

Theo tiêu chí, trong chừng mực tinh thần Trần Nhân Tông (từ bi hỉ xả) được thể hiện. Tuy nhiên các tiêu chí như « xây dựng tình hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc, tôn giáo giải quyết các mối xung đột, chấm dứt chiến tranh… » rõ ràng là các tiêu chí nặng về chính trị. Những thứ như « xây dựng tình hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc, tôn giáo… » là những khái niệm chính trị kim thời.

Tinh thần Trần Nhân Tông, là tinh thần Phật giáo từ thế kỷ 14, cũng khó nhận diện trong xã hội Việt Nam. « Từ bi, hỉ xả » trong xã hội này chỉ là chót lưỡi đầu môi, hay chỉ thấy trong kinh Phật. Không thể phản bác rằng xã hội hiện nay ở VN là một xã hội không hề được xây dựng trên một nền tảng đạo đức của bất kỳ một lý thuyết tôn giáo nào. Phật cũng như chúa, nhà thờ hay nhà chùa, hầu hết đều bị đập phá, cào bằng, vì chủ trương tôn giáo là « thuộc phiện » của những người cộng sản Việt. Lòng từ bi hỉ xả của nhà Phật, lòng bác ái của nhà Chúa đã bị đánh đổi với « lòng căm thù giai cấp » của nhà Hồ. Xã hội Việt Nam vì vậy là xã hội của căm thù và chia rẽ.

Về truyền thống, dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần sự hòa giải nhứt. Mỗi lần thay ngôi đổi chúa là mỗi lần tru di tam tộc, là máu chảy đầu rơi, là truy bức đến ba đời. Âm hưởng cuộc đổi đời 1975, bốn triệu người chết, oan ức chất chồng lên oan ức, vẫn còn ghê rợn cho đến hôm nay.

Giải Trần Nhân Tông về « hòa giải và yêu thuơng », trao cho bà Aung San Suu Kyi và Tổng thống Thein Sein của Miến Điện, xem chừng tạo ra vị đắng chát trong miệng của nhiều người Việt. Trong nội bộ đảng cộng sản VN hiện đang rối rắm như nồi xà-bần vì những cuộc tranh chấp quyền lực và quyền lợi giữa những đảng viên cao cấp nhứt. Sao không đem « hòa giải và yêu thuơng » áp dụng trong nội bộ đảng CSVN mà đem ra nước ngoài ?

Viện Trần Nhân Tông được giao cho một người Mỹ đứng tên quả thật là đúng cách. Vì con đĩ chỉ có thể dạy cách vén váy chứ không thể dạy mọi người hòa giải và yêu thuơng.

Nhưng đâu là mục tiêu (chính trị) của viện này ?

Xem chừng những học giả người Mỹ tại Harvard đang đi lại con đường mà nhiều học giả HK ngày xưa, cùng với lobby của người Hoa tại Hoa Kỳ, thúc đẩy giới chính trị Mỹ để thông qua luật « Taiwan Relations Act » (1979), đồng thời tiến đến việc « dân chủ hóa Đài Loan » vào thập niên 90. Những học giả ở Harvard đã từng tổ chức những cuộc « hội thảo » về dân chủ, với sự có mặt của chính giới Đài Loan cũng như nhiều nhân vật đối lập với Quốc Dân đảng. Những học giả này là động lực thúc việc dân chủ hóa Đài Loan.

Việt Nam hôm nay đang mong muốn được mua « vũ khí sát thuơng » của Hoa Kỳ. Trong chừng mực có cùng ý muốn của lãnh đạo Quốc Dân đảng Trung Hoa thời trước, là muốn được mua vũ khí của HK để tự vệ. VN hôm nay bị vướng phải hồ sơ nhân quyền. Quốc Dân đảng ngày xưa bị vướng bởi Tuyên bố Thuợng Hải, Hoa Kỳ cam kết không can dự nội bộ của TQ sau khi đã công nhận Đài Loan là một phần của TQ. Nhưng Hoa kiều sinh sống tại Hoa Kỳ rất đông đảo, phần lớn lại ủng hộ chính quyền Tưởng Giới Thạch. Lobby của kiều dân Hoa tại Mỹ lại rất mạnh. Nhờ vận động hành lang của các nhóm này, thuợng viện HK thông qua dự luật « Taiwan Relations Act » ngày 10-4-1979, theo đó HK chủ trương việc giải quyết vấn đề Đài Loan bằng phương tiện hòa bình (HK tôn trọng ý nguyện, tức sự lựa chọn chính trị  của dân Đài Loan), đồng thời cho phép chính quyền Dân Quốc được mua các loại vũ khí của HK để tự vệ.

Nhưng vấn đề VN hoàn toàn khác. Về bang giao Việt-Mỹ, hai bên đã nối lại quan  ngoại giao, nhưng HK vẫn chưa hề xem VN là một nước đáng tin cậy để trở thành một đồng minh, hay một đối tác chiến lược thân thiết. Vai trò VN không hề được Hoa Kỳ xem là quan trọng trong chiến lược châu Á của họ. Nhưng VN thì rất cần HK để cân bằng ảnh hưởng ngày một nghẹt thở của TQ. HK có thể bán vũ khí sát thuơng để VN có thể tự vệ trước TQ hay không ? Vận động ngoại giao theo lối viện Trần Nhân Tông là vận động theo lối « đi tắt », không thông qua « lobby VN », thành công hay không là tùy thuộc vào quyền lợi của HK. Điều này có ý muốn nói rằng, nếu TQ thỏa mãn quyền lợi HK thì việc mua bán cũng khép lại.

Quan hệ HK – Đài Loan là quan hệ bền chặt vì quyền lợi, chính trị và lý tưởng. Quan hệ VN và HK là quan hệ chót lưỡi đầu môi, đôi khi kẻ cắp với bà già, VN không tạo được một sự tin tưởng nào trong giới chính trị HK.   

Trong khi hàng năm kiều dân Việt gởi về nước khoảng 7 tỉ đô la. Với số tiền này VN mua khí giới gì lại không được ? Đợt mua vũ khí nhiều nhứt của Đài Loan chỉ mới có 4 tỉ đô la. Vấn đề là VN muốn mua mà HK không bán !

VN muốn đi tắt, muốn « hòa giải và yêu thuơng » với kẻ thù cũ là Hoa Kỳ. Đưa ra hình tượng Trần Nhân Tông là rất ý nghĩa. Nhưng rõ ràng là VN không muốn « hòa giải » với chính người dân của họ. Nhìn thấy cảnh trí nghĩa trang quân đội VNCH ở Biên Hòa, mới thấy sự tàn độc trong lối trả thù của người cộng sản Việt. Họ cho trồng cây san sát khắp nghĩa trang, nghe nói đó là một loại cây có rễ to lớn. Không bao lâu các ngôi mộ bị rễ cây bứng lên. Người thân chỉ có cách duy nhứt là hốt cốt đem đi. Người chết còn không yên thân huống chi người sống.

« Lobby » của dân Việt tại HK hiện nay cũng đã lớn mạnh, không kém « lobby » Hoa kiều năm 1979. Nếu vận dụng tận lực, rất có thể VN sẽ được hưởng một luật, tương tự luật « Taiwan Relations Act ». VN có thể được mua vũ khí của HK để tự vệ. Điều này bảo đảm an ninh cho VN trước mọi âm mưu bành trướng của TQ.

CSCN đã sai lầm nhiều lần trong quá khứ. Năm 1975, cơ hội bằng vàng để hòa nhập với cộng đồng thế giới văn minh, cùng lúc hủy bỏ mọi hứa hẹn, mọi tuyên bố của VN về chủ quyền của TQ tại HS và TS. Thập niên 90, cơ hội bằng vàng khác để « giả từ ý thức hệ », VN gia nhập vào hàng ngũ các nước văn minh, đồng thời tuyên bố xóa bỏ mọi hứa hẹn của lãnh đạo CSVN về lãnh thổ với TQ trước đó. Bây giờ, do mù quáng bởi quyền lợi và quyền lực, lãnh đạo VN tiếp nối nhau đi TQ, cam kết với lãnh đạo TQ quan hệ Việt – Trung cần được “kế thừa, gìn giữ và phát huy”[ii]. Điều này có nghĩa lãnh đạo VN hôm nay sẽ phải nhìn nhận tất cả các hứa hẹn, các tuyên bố của lãnh đạo miền bắc xưa kia về chủ quyền của TQ tại HS và TS. Trong khi, nếu thực thi đứng đắn chính sách hòa giải dân tộc, VN hôm nay sẽ có được tính chính thống để kế thừa danh nghĩa của VNCH, phủ nhận mọi đòi hỏi của TQ.

HS và TS cùng vùng biển chung quanh chắc chắn sẽ được « gác tranh chấp cùng khai thác », chủ trương ngày trước của Đặng Tiểu Bình. Điều này có nghĩa ruộng VN từ nay cày bừa chung với TQ, chia đôi lợi tức với TQ. Đó cũng là một hình thức mất nước.
VN cần phải mua được vũ khí của HK để tự vệ, bằng ngoại tệ của kiều bào người Việt. VN cũng có thể sẽ ký kết « hiệp ước an ninh hỗ tương với HK » nhờ « lobby » của kiều bào. Điều này khả thi nếu chính sách hòa giải được thực hiện như là một chính sách đúng đắn của quốc gia.

Những vận động của các trí thức chung quanh viện Trần Nhân Tông là điều tốt, nếu họ biết áp dụng « hòa giải và yêu thuơng » trước hết cho tộc Việt. Và vấn đề « hòa giải » không phải là « hỉ xả », « hóa giải », bỏ hết quá khứ. Hòa giải phải là một chính sách. Nó không thể, và cũng không phải, là một mồi câu chính trị.


Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.