dimanche 31 octobre 2021

Bàn về "quốc gia Đài loan độc lập" và chiến lược "mù mờ" của Mỹ trong vấn đề Đài loan.

Bàn về "quốc gia Đài loan độc lập" và chiến lược "mù mờ" của Mỹ trong vấn đề Đài loan.

Sự “mơ hồ trong chiến lược” của Mỹ ở vấn đề Đài loan được cho là không ai biết Mỹ có can thiệp hay không, nếu Bắc kinh ngày nào đó phá vỡ hiện trạng, sử dụng vũ lực để “giải phóng” Đài loan. 


“Mơ hồ chiến lược” của Mỹ về vấn đề Đài loan từ lâu đã được các chuyên gia về Trung quốc giải thích. Đó là Mỹ muốn, thứ nhứt, ngăn chặn việc “tuyên bố độc lập đơn phương” từ phía Đài bắc. Thứ hai, buộc những thành phần “diều hâu” từ lục địa, những người muốn sử dụng vũ lực để “thống nhứt đất nước”, trước khi ra tay phải cân nhắc lại. 


Nói chung là Mỹ muốn giữ “nguyên trạng” hai bờ eo biển Đài loan, đã được Mỹ xác lập từ năm 1979. 


Nhưng lập trường “mù mờ” của Mỹ về Đài loan có thể giải thích bằng cách khác, trên quan điểm luật học. 


Đó là Mỹ, nhân danh một đại cường “làm gì cũng làm theo luật”, không thể có những tuyên bố, hay có những hành vi mâu thuẩn, bất nhứt. Các việc này có thể phá vỡ nguyên tắc “Quốc gia Trung hoa duy nhứt” mà lâu nay Mỹ đã nhìn nhận Đài loan là một phần lãnh thổ của quốc gia Trung hoa duy nhứt đó. 


Các tuyên bố, các hành vi có thể “gây hiểu lầm”, khiến Đài loan đơn phương “tuyên bố độc lập”, hay khiến TQ sử dụng vũ lực “giải phóng” Đài loan “thống nhứt đất nước”.


Sự “mơ hồ về chiến lược” của Mỹ về Đài loan bắt đầu từ khi nào ?


Những cam kết của Mỹ về Đài loan gồm có: 1/ ba tuyên bố chung Mỹ-Trung quốc. 2/ Đạo luật Quan hệ Đài loan 1979 (TRA 1979 - Taiwan Relations Act). 3/ Tuyên bố Reagan năm 1982 gồm 6 điểm liên quan vấn đề Đài loan.


Quan điểm của Trung quốc về Đài loan thể hiện qua Tuyên bố Thượng Hải tháng Hai năm 1972 giữa Nixon và Chu Ân Lai. 


Quan điểm của TQ về Đài loan (1) dứt khoát và cụ thể: Đài loan là một tỉnh của TQ và nhà cầm quyền ở Bắc kinh là đại diện chính đáng duy nhứt cho nước Trung hoa. 


Quan điểm của Mỹ (2) qua Tuyên bố Thượng hải 1972 :


The United States acknowledges that all Chinese on either side of the Taiwan Strait maintain there is but one China and that Taiwan is a part of China. The United States Government does not challenge that position. It reaffirms its interest in a peaceful settlement of the Taiwan question by the Chinese themselves.”


Tạm dịch: “Hoa Kỳ thấy rằng người Hoa ở hai bờ eo biển Đài Loan cùng ủng hộ một Trung hoa và Đài Loan là một phần của Trung hoa. Mỹ không thách thức lập trường này. Mỹ tái khẳng định sự quan tâm của mình đối với việc giải quyết vấn đề Đài Loan bằng phương cách hòa bình của người Hoa...”.


Ta có thể cho rằng ngôn ngữ sử dụng của Mỹ là khá “mù mờ”. 


“The US acknowledges that...” Tức Mỹ chỉ “nhận thấy” (chớ không công nhận) một thực tế (là dân hai bờ eo biển cho rằng Đài loan là một phần của TQ). 

Mù mờ ở chỗ Mỹ “nhận thấy” sự việc đó, “vào thời điểm đó”, nó là như vậy. Nhưng vào thời điểm khác (như bây giờ) thì Mỹ có thể “nhận thấy” sự việc đó đã khác đi (3). 

Ta cũng thấy lập trường của Mỹ là chỉ ủng hộ việc giải quyết vấn đề Đài loan giữa những người Hoa “bằng phương cách hòa bình của người Hoa”. 


Mù mờ ở chỗ, nếu lục địa chọn phương pháp thống nhứt Đài loan “không hòa bình”. Điều này nếu xảy ra sẽ đưa tới việc Mỹ “không ủng hộ” phương cách của TQ.


Nhưng từ việc “Mỹ không ủng hộ phuong cách của TQ” đến việc “Mỹ can thiệp” để bảo vệ Đài loan là cả một chặn đường cam go về thực tiễn (tương quan lực lượng), chính trị và pháp lý. 

Các “cam kết” của Mỹ về Đài loan sau này, như TRA 1979 có mục đích cam kết “bán vũ khí tự vệ cho Đài loan”, hay Tuyên bố 6 điểm của Reagan năm 1982 về các điều kiện “bán vũ khí tự vệ cho Đài loan” không đặt lại nội dung “Đài loan là một phần của TQ” cũng như xác định hay phủ định, Mỹ có can thiệp hay không, nếu lục địa tấn công Đài loan bằng vũ lực.  


Ta có thể nói rằng “chiến lược mù mờ” của Mỹ về vấn đề Đài loan bắt nguồn từ Tuyên bố Thượng hải 1972.

 

Đài loan là một quốc gia độc lập ?


Nhiều tác giả, báo chí VN cho rằng Đài loan là một “quốc gia độc lập”. Nhận xét này hoàn toàn sai lầm.


Trên thực tế - de facto - Đài loan hành sử “như là một quốc gia độc lập có chủ quyền”. Đài loan có “lãnh thổ cụ thể”, có “dân chúng xác định”, có một chính phủ quản lý với thẩm quyền độc lập (trên lãnh thổ Đài loan và một số đảo phụ thuộc). 


Nhưng về pháp lý - de jure - Đài loan và lục địa là những lãnh thổ thuộc về một Quốc gia duy nhứt tên gọi Trung Hoa. 


Từ năm 1943, qua Tuyên bố Cairo, các cường quốc Mỹ và Anh cam kết buộc Nhật phải trả lại cho Trung Hoa những vùng mà Nhật đã “cướp” của Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ. Sau khi Nhật đầu hàng, cam kết này khẳng định lại qua Hòa ước San Francisco 1951. 


Nguyên tắc “Trung hoa duy nhứt” và Đài loan thuộc về quốc gia này đã được xác lập do ý chí của các đại cường Đồng Minh Mỹ, Anh… từ năm 1951. 


Trên quan điểm cho rằng “Đài loan là quốc gia độc lập” của các học giả, nhà báo VN... lãnh thổ “quốc gia” Đài loan bao gồm đảo Đài loan và một số đảo như Bành hồ, Kim môn, Mã tổ, Đông sa… 


Tất cả các vùng lãnh thổ này đều thuộc về một quốc gia duy nhứt là Trung Hoa.  


Một nước (country) không thể có hai vua (chủ quyền). 


Chủ quyền trong một quốc gia là “quyền lực tối thượng”, “duy nhứt” và “bất khả phân”. 


Khi được định nghĩa là “duy nhứt và bất khả phân”, thì trên lãnh thổ nước Trung hoa, bao gồm lục địa và Đài loan, chỉ có một “quyền lực chủ tể” duy nhứt.  


Lập trường của Mỹ và đại đa số các quốc gia trên thế giới, chủ quyền của Trung hoa hiện nay “tụ” ở Bắc kinh, chớ không ở Đài bắc.


“Quốc gia” là một khái niệm trừu tượng về luật được khai sinh ra từ Luật pháp. (L’État est une fiction juridique créée par le Droit). 

Đài loan,với lãnh thổ là đảo Đài loan (và các đảo trực thuộc”, với dân chúng cư ngụ ở các đảo này, chưa bao giờ là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”. Dân chúng Đài loan trong một thời kỳ dài không biểu hiện ý chí muốn “độc lập” với lục địa. Việc này có thể kiểm chứng lại qua lịch sử Đài loan.

 

Lập trường “quốc gia duy nhứt” của các chính phủ Quốc dân đảng và Dân tiến.

Từ năm 1945 đến 1988 Đài Loan liên tục do Quốc Dân đảng lãnh đạo, chính quyền nơi đây là một kiểu mẫu điển hình vừa “quân phiệt”, vừa “gia đình trị” vừa “độc tài đảng trị”, thân Tây Phương và chủ trương kinh tế tư bản. Quốc hội ở đây được thành lập với một số đông đảo ⅔ đại biểu có nhiệm kỳ “suốt đời”. Những đại biểu này vốn là các đại biểu quốc hội đầu tiên tổ chức ở lục địa năm 1948 di cư ra Đài loan sau biến cố 1949. Nhiệm kỳ các đại biểu kéo dài, nhân danh nguyên tắc “thời kỳ di tản tạm thời chờ quang phục lục địa”. Theo nguyên tắc, chức vụ Tổng thống Dân quốc được các đại biểu quốc hội bầu ra. Ta thấy bầu cách nào thì chức tổng thống vẫn thuộc về Tưởng giới Thạch, hay con là Tưởng Kinh quốc, dĩ nhiên cho tới khi các đại biểu “di tản từ lục địa” quá cố, được thay thế bởi các đại biểu mới. 

Trong suốt khoảng thời gian lãnh đạo, chủ trương của Tưởng Giới Thạch, sau chuyển sang cho con là Tưởng Kinh Quốc, là “quang phục lục địa”, Đài Loan và lục địa có chung một tổ quốc, một nước Trung Hoa.

Sau khi Tưởng Kinh Quốc từ trần, chức vụ tổng thống được trao lại cho vị phó là Lý Đằng Huy. Công cuộc “dân chủ hóa” Đài loan bắt đầu từ đây. 

Hai nhiệm kỳ tổng thống (1990-1996 và 1996-2000) của Lý Đằng Huy, ngoài dân chủ hóa và “Đài Loan hóa” hệ thống chính trị, chính sách “thống nhứt Trung Quốc” cũng được đặt ra, nhưng trên nền tảng hòa bình. 

Trước sự sụp đổ của khối cộng sản, phe chống cộng ở Đài Loan nghĩ rằng sẽ thống nhất lục địa dễ dàng bằng phương pháp dân chủ. Ủy Ban Thống nhứt Quốc Gia ra đời năm 1991. Mục đích thống nhứt là “xây dựng một nước Trung Hoa dân chủ, tự do và một sự thịnh vượng được chia sẻ”. 

Quan hệ hai bờ eo biển, Đài Loan lập ra Strait Exchange Foundation (SEF) và phía Trung Quốc lập Association for Relation Across the Taiwan Strait (ARATS). Đài loan chủ trương “mỗi bên giải thích theo ý của mình về một nước Trung Hoa”. Lập trường phía lục địa: “Hai bên giữ cơ bản một nước Trung Hoa và cố gắng vận động để thống nhất đất nước. Trong giai đoạn giao tiếp hai bên không được đề cập đến ý nghĩa chính trị của “một nước Trung Quốc””. Năm 1992 còn có cái gọi là “đồng thuận Singapour”, theo đó hai bên cùng nhìn nhận nguyên tắc “một quốc gia Trung hoa nhưng có nhiều cách diễn giải”. 

Lập trường của lục địa bắt đầu cứng rắn năm 1995, sau khi “trụ” được sau cuộc chấn động do hệ thống XHCN sụp đổ. Đồng thời với việc thao diễn “cơ bắp” bắn hỏa tiễn về phía Đài loan, TQ ra “sách trắng”, trong đó có đoạn: ”Chấp nhận nguyên tắc một Trung Quốc mà không chấp nhận bất kỳ ngoại lệ nào. Đài Loan không được gia nhập bất kỳ một tổ chức quốc tế nào dành cho các quốc gia, không được quan hệ chính thức với các nước đã công nhận Trung Quốc lục địa. Nguyên tắc không từ bỏ việc sử dụng sức mạnh quân sự chỉ nhắm vào các lực lượng nước ngoài mà không nhắm vào Đài Loan….” 

Nhưng các việc “thao diễn cơ bắp” bằng quân sự và leo thang về ngôn từ hăm dọa đã khiến lực lượng phe dân chủ Đài loan càng được củng cố. Khuynh hướng “ly khai” bắt đầu loan truyền rộng rãi trong dân chúng Đài loan.

Cũng từ năm 1995 TQ tìm mọi cách cản trở Đài loan gia nhập ở bất kỳ một tổ chức quốc tế nào.

Lo ngại Đài loan bị cô lập, quan điểm về “một quốc gia Trung hoa” của của Tổng Thống Lý Đằng Huy được điều chỉnh lại như sau: “Trung Hoa Dân Quốc là một quốc gia có chủ quyền từ năm 1912. Sau khi chính quyền cộng sản được thiết lập năm 1949, hai bên bờ (eo biển Đài Loan) là hai thực thể chính trị đồng đẳng”. 

Đến tháng 7 năm 1999, Tổng Thống Lý Đằng Huy tuyên bố rằng quan hệ giữa hai bờ là quan hệ giữa quốc gia với quốc gia (lưỡng biên lưỡng quốc). Sở dĩ có việc này là vì sự hứa hẹn của Bắc Kinh về “một quốc gia hai hệ thống” được áp dụng tại Hồng Kông và Ma Cao cho thấy không thích hợp với Đài Loan. Theo ông Lý, Đài Loan là một nước độc lập và có chủ quyền chứ không phải là một thuộc địa như Hồng Kông và Ma Cao.

Mô hình “hai quốc gia” Nam và Bắc Hàn cùng gia nhập vào LHQ năm 1991 có thể đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của Lý Đằng Huy. Ông này cho thành lập nhóm nghiên cứu về “hình thức đặc biệt cho quan hệ giữa quốc gia và quốc gia” để áp dụng hai bên bờ eo biển Formosa. 

Tháng 3 năm 2000 ông Trần Thủy Biển, thuộc đảng Dân tiến, tiếp nối chính sách của Lý Đằng Huy, đắc cử. Diễn văn đọc sau khi đắc cử vào tháng 5 có nội dung đáng chú ý: đến khi nào mà lãnh đạo đảng CS Hoa Lục không sử dụng bạo lực để tấn công Đài Loan thì trong suốt nhiệm kỳ của Trần Thủy Biển sẽ không tuyên bố Đài Loan độc lập. 

Mùa hè 2002, Trần Thủy Biển đưa ra nguyên tắc “nhứt biên nhứt quốc”, mỗi bờ một nước. Ngày 14 tháng 3 năm 2005, quốc hội Trung Quốc thông qua luật “chống ly khai”, việc này gây chống đối nơi dân chúng Đài Loan…

Sau khi Mã Anh Cửu tái chinh phục quyền lực cho Quốc dân đảng, lập trường “thân” lục địa của Quốc dân đảng làm “hạ nhiệt” căng thẳng hai bờ eo biển Formosa. Vấn đề “Đài loan độc lập” chưa bao giờ được phía Quốc dân đảng đặt ra.

Bà Thái Anh Văn, thuộc đảng Dân tiến, sau khi tái đắc cử 15 tháng Giêng 2020 có tuyên bố rằng : “Trung Quốc phải chấp nhận thực tế Đài Loan đã là một quốc gia độc lập... Chúng tôi không cần tuyên bố Đài Loan là một Quốc gia độc lập. Chúng tôi đã là một đất nước độc lập, với quốc hiệu Trung Hoa Dân Quốc”.

Vấn đề là hai Quốc gia lần lượt gọi là Trung Hoa Dân Quốc (Cộng hòa Trung hoa) và Cộng hòa Nhân Dân Trung hoa (Trung quốc) đều có chung một lãnh thổ, chung một khối quốc dân. 

Bà Thái Anh Văn nhắc lại lập trường của Lý Đằng Huy, của Tưởng Giới Thạch… từ năm 1949 cho tới bây giờ. 

Dưới cái nhìn Bắc kinh: Đài loan là một phần lãnh thổ của Quốc gia tên gọi Trung hoa Nhân Dân Cộng hòa quốc. 

Cái nhìn của Đài bắc: Lục địa là phần lãnh thổ của Quốc gia tên gọi Cộng hòa Trung hoa (còn gọi dưới tên thông dụng Trung hoa Dân quốc).

Tức là ý kiến của Lý Đằng Huy được bà Thái Anh Văn nhắc lại: “mỗi bên giải thích theo ý của mình về một nước Trung Hoa”. Đây cũng là nội hàm của cái gọi là “đồng thuận Singapour 1992”.

 

Cách nào để Đài loan trở thành một “quốc gia độc lập” ?


TT Biden có tuyên bố hôm thứ năm 21 tháng mười, nhân trả lời báo chí, rằng Mỹ sẽ “bảo vệ Đài loan nếu TQ tấn công”. 


Rõ ràng TT Biden đã “bạch hóa” chiến lược mù mờ của Mỹ về Đài loan. Đây là một cơ hội để bà Thái Anh Văn chụp lấy và tuyên bố Đài loan độc lập. 


Ngày hôm sau Tòa Bạch ốc đính chính lại. Phát ngôn nhân Jen Psaki nói rằng tổng thống Mỹ “không loan báo thay đổi chính sách” đồng thời Mỹ tiếp tục “tôn trọng những cam kết giúp Đài Loan tự vệ và tiếp tục phản đối mọi thay đổi nguyên trạng”. 


Hôm 29 tháng 10, bà Sandra Oudkirk, người đứng đầu văn phòng đại diện Mỹ tại Đài loan khẳng định trước báo chí rằng “Mỹ sẽ giúp Đài loan tự vệ”. 


Câu hỏi đặt ra, khi Đài loan tuyên bố độc lập, TQ có thể áp dụng “luật chống ly khai” để đánh Đài loan. Lúc đó Mỹ có đưa quân can thiệp, bảo vệ Đài loan như ý kiến của TT Biden, hay chỉ là hỗ trợ vũ khí để quân Đài loan “mình ên” tự vệ ? 


Chiến lược về Đài loan của Mỹ vốn mù mờ, qua các tuyên bố của quan chức Mỹ nay lại thêm phần “rối loạn”.


Trên quan điểm luật học, nếu Mỹ (cũng như nhiều quốc gia trên thế giới) đã nhìn nhận Đài loan là một phần của Trung hoa. Điều này có nghĩa vấn đề Đài loan là “chuyện nội bộ” của Trung quốc và các quốc gia khác không có quyền can thiệp vào.


Vấn đề là Mỹ đã từng nhìn nhận chính phủ Trung hoa Dân quốc ở Đài bắc từ sau Thế chiến II, có ký hiệp ước “an ninh hỗ tương” với Trung hoa Dân quốc. Các việc này trở thành “caduc - vô hiệu lực” sau khi Mỹ công nhận chính quyền Bắc kinh năm 1979. Nhưng Mỹ vẫn còn ràng buộc với Đài loan theo tinh thần Tuyên bố Thượng hải 1972 cũng như luật về Quan hệ với Đài loan (TRA 1979). 


Tức là Mỹ có “lý do chính đáng” để can dự vào nội bộ Trung hoa, nếu lục địa tấn công Đài loan bằng vũ lực. Nhưng một cuộc “phòng thủ tập thể”, bao gồm các đồng minh của Mỹ như AUKUS, sẽ không “hợp pháp”, kiểu “jus ad bellum” như chiến tranh “đánh Iraq giải phóng Kuwait” đầu thập niên 90, vì khó thuyết phục được dư luận quốc tế.


Tuyên bố độc lập là vấn đề sống còn của nền dân chủ ở Đài loan, cũng như để bảo vệ nếp sống khác biệt của người dân Đài loan đối với dân lục địa. Điều khó khăn là làm thế nào để Đài loan tiến tới độc lập, bằng phương cách hòa bình, mà TQ không phản đối ? 


Hứa hẹn lúc tranh cử của bà Thái Anh Văn, việc này giúp bà thắng lớn, cũng là các việc “đưa Đài loan gia nhập các tổ chức quốc tế”. Tổng thống Mỹ Biden, cũng như nhiều lãnh tụ các quốc gia tiên tiến, cùng khẳng định sẽ ủng hộ Đài loan gia nhập các tổ chức quốc tế. Vấn đề là bằng cách nào ?


Đài loan không có “tư cách pháp nhân quốc gia”, hệ quả không thể gia nhập các tổ chức quốc tế trực thuộc LHQ. Các tổ chức này chỉ thâu nhận thành viên “quốc gia” mà thôi.


Để thực hiện mục tiêu này dân chúng Đài loan có thể sử dụng quyền “dân tộc tự quyết”, thể hiện qua các hình thức trưng cầu dân ý để ly khai. “Dân tộc tự quyết” là một nguyên tắc nền tảng được Hiến chương LHQ ghi nhận nhưng vấn đề “ly khai” thì “mạnh được yếu thua”, không có luật lệ gì cả. 


Trên nguyên tắc bà Thái Anh Văn có thể tuyên bố “Đài loan độc lập” mà không thông qua nguyên tắc “trưng cầu dân ý”. Nhiều cuộc thăm dò, từ thập niên 2000 hoặc mới đây, đã cho thấy trên 80% dân Đài loan muốn được đối xử như là “một quốc gia”. 


Trong trường hợp này “quyền dân tộc tự quyết” của dân Đài loan sẽ đối đầu với nguyên tắc luật học “chủ quyền quốc gia” và thuyết “toàn vẹn lãnh thổ” của phía lục địa. Cả hai bên đều có lý do thuyết phục. Cả hai bền đều có tính “chính đáng”, trên quan điểm pháp lý quốc tế. 


Thắng bại hai bên là “tương quan lực lượng”, từ tương quan quốc phòng đến tương quan ngoại giao với các quốc gia khác.


Bằng phương cách này, các quốc gia ủng hộ Đài loan có thể nhanh chóng “công nhận” Đài loan, qua một thủ tục ngoại giao. Từ đó các tổ chức LHQ có thể thâu nhận quốc gia thành viên mới mang tên Đài loan. 


Ngoài phương pháp đơn phương tuyên bố độc lập, Đài loan còn có phương cách khác, thỏa mãn các yêu sách của các bên. Đó là áp dụng mô hình “hai quốc gia” tạm thời của hai miền Nam Bắc Hàn. 

Theo đó Đài loan và lục

địa đều có ghế đại diện ở LHQ nhưng quan hệ giữa các bên không phải là quan hệ “quốc gia với quốc gia” mà là một quan hệ đặc biệt, thiết lập tạm thời trong quá trình dẫn tới việc thống nhứt đất nước”. (4)


Mô hình này thỏa mãn các bên, ngoại trừ TQ, mặc dầu nguyên tắc “một Trung hoa” được giữ nguyên.  


Điều khó khăn là Mỹ sẽ “trao đổi” với TQ lợi ích gì để TQ nhượng bộ, coi Đài loan là “đồng đẳng” với mình ở LHQ ? 


Lợi ích cốt lõi của TQ có 4 điều: Tây tạng, Tân cương, Đài loan và biển Đông. 


Tây tạng và Tân cương xa quá, Mỹ vói tay không tới. Chỉ còn Biển Đông. Mỹ có thể đánh đổi chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia (như VN) ở Biển Đông để đổi lấy nền độc lập cho Đài loan hay không ? Với giá này đối với Mỹ là quá “hời”. Chỉ cần TQ tôn trọng “quyền tự do hải hành và không lưu” ở khu vực Biển Đông thì chủ quyền đảo HS và TQ thuộc về nước nào, hay vùng biển chữ U thuộc kinh tế độc quyền của nước nào… không còn là điều quan trọng đối với Mỹ nữa.

 

Tài liệu tham khảo: 


La Chine en quête de ses frontières - La confrontation Chine-Taiwan. Tác giả Jean-Pierre Cabestan và Benoit Vermander. NXB Sciences Po 2005. 


Chine-Taiwan La Guerre est-elle Concevable ? NXB Economia 2003.


Dictionnaire de la Chine Contemporaine. Sous la direction de Thierry Sanjuan. NXB Armand Collin 2007.

 

(1) The Taiwan question is the crucial question obstructing the normalization of relations between China and the United States; the Government of the People’s Republic of China is the sole legal government of China; Taiwan is a province of China which has long been returned to the motherland; the liberation of Taiwan is China’s internal affair in which no other country has the right to interfere; and all U.S. forces and military installations must be withdrawn from Taiwan. The Chinese Government firmly opposes any activities which aim at the creation of “one China, one Taiwan,” “one China, two governments,” “two Chinas,” and “independent Taiwan” or advocate that “the status of Taiwan remains to be determined.”


(2) The United States acknowledges that all Chinese on either side of the Taiwan Strait maintain there is but one China and that Taiwan is a part of China. The United States Government does not challenge that position. It reaffirms its interest in a peaceful settlement of the Taiwan question by the Chinese themselves. With this prospect in mind, it affirms the ultimate objective of the withdrawal of all U.S. forces and military installations from Taiwan. In the meantime, it will progressively reduce its forces and military installations on Taiwan as the tension in the area diminishes.


(3) Thật vậy, các cuộc thăm dò gần đây được tổ chức ở Đài loan cho thấy có đến 80% dân Đài loan bác bỏ nguyên tắc “một quốc gia hai chế độ” của Tập Cận Bình và 85% dân chúng ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển là “quốc gia với quốc gia”, thể hiện qua 4 điều kiện lập thành quan hệ Đài loan - Trung quốc: 1/ đối thoại chính thức với Đài Loan ở cấp giữa các Quốc gia bằng cách thừa nhận quy chế của Đài Loan là một quốc gia có chủ quyền ; 2/ tôn trọng quyền tự do và dân chủ của Đài Loan ; 3/ ký kết các thỏa thuận với Đài Loan một cách hòa bình và công bằng và 4/ cuối cùng là thông tin liên lạc ở cấp duy nhất là giữa chính phủ với chính phủ.  


Tức là Mỹ có thể “nhận thấy” hiện nay dân Đài loan chủ trương “lưỡng biên lưỡng quốc”, hai bờ hai quốc gia, và ý chí của dân ở đây là Đài loan trở thành một “quốc gia độc lập, có chủ quyền”, ngang hàng với TQ.

(4) Hiệp định Liên Triều ký ngày 13 tháng 12 năm 1991, những dòng mở đầu khẳng định: “la relation entre les parties n'est pas une relation d'Etat à Etat mais une relation spéciale établie provisoirement au cours du processus devant mener à la réunification” - quan hệ giữa các bên không phải là quan hệ “quốc gia với quốc gia” mà là một quan hệ đặc biệt, thiết lập tạm thời trong quá trình dẫn tới việc thống nhứt đất nước”.


 

 


samedi 9 octobre 2021

Đài loan cộng hòa quốc.


Hôm qua 7 tháng 10 tại Đài bắc, Thượng nghị sĩ Pháp Alain Richard, nguyên là cựu Bộ trưởng Bộ quốc phòng Pháp, trưởng đoàn đại biểu Thượng nghị sĩ Pháp hiện đang có chuyến thăm viếng 5 ngày ở Đài loan. Ông Alain Richard đã có phát biểu gây “sốc” cho Bắc kinh. Ông Thượng nghị sĩ khen ngợi văn phòng đại diện Đài loan tại Paris hoạt động rất hiệu quả trong tư cách đại diện cho “NƯỚC” của quí vị”. Nguyên văn : "a fait un très bon travail dans la représentation de votre pays”. 

Ý kiến làm sốc Bắc kinh : Đài loan là một “nước - pays”, tức “quốc” theo tiếng Hoa. Ý kiến phát biểu trong bối cảnh lục địa đang làm áp lực tối đa lên Đài loan qua các đợt cho hàng trăm máy bay bay qua vùng “nhận dạng phòng không ADIZ” của Đài loan. Các chuyên gia quốc tế tiên đoán, từ nay cho đến 2030 TQ sẽ chiếm Đài loan. Nhưng tình hình năm tới 2022 đảng CSTQ sẽ bầu lãnh đạo mới. Tập Cận Bình cần có một “chiến tích” để khẳng định vị thế tổng bí thư kiêm chủ tịch nước của mình. Vì vậy không thể loại trừ khả năng lục địa sẽ đánh Đài loan trong thời gian gần hơn. 

Phát ngôn nhân Bộ ngoại giao TQ Triệu Lập Kiên phản đối, cho rằng Pháp đã “vi phạm trắng trợn sự đồng thuận chung của cộng đồng quốc tế”. 

Vấn đề là những “đồng thuận chung của cộng đồng quốc tế” không chắc đã ủng hộ lý lẽ của Bắc kinh. 

Có lẽ ông Triệu Lập Kiên đã quên nội dung Tuyên bố Caire (Cairo tháng 11 năm 1943). Thống chế Tưởng Giới Thạch tham gia Hội nghị Caire, đàm phán với các lãnh tụ Đồng minh gồm Tổng thống Roosevelt của Mỹ và Thủ tướng Churchill của Anh, về các điều kiện để Trung hoa gia nhập khối Đồng minh tuyên bố chiến tranh với Nhật. 

Các điều kiện đó là: Nhật phải trả lại cho Trung hoa những vùng lãnh thổ mà đế quốc này đã “ăn cướp” của Trung hoa như Mãn Châu, Đài loan và quần đảo Bành hồ. 

Đúng như lời hứa, Tưởng Giới Thạch ra tuyên bố Trung hoa trong tình trạng có chiến tranh với Nhật. 

Sau khi Nhật đầu hàng, các vùng lãnh thổ đã ghi trong Tuyên bố Cairo 1943 được  quân Trung hoa chiếm lại trên thực tế. 

“Đồng thuận quốc tế” về Đài loan (nói kiểu Triệu Lập Kiên) - về mặt pháp lý “de jure” - được thể hiện qua (điều 2 khoản b) Hòa ước San Francisco 1951. Điều ước này được trích dẫn nguyên văn và ghi lại trong hòa ước Nhật-Trung 28 tháng Tư năm 1952. Trung hoa ký riêng hòa ước với Nhật, vì lý do Trung hoa không có đại diện tham dự hội nghị San Francisco. Đồng thuận này được tái khẳng định sau đó qua Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị 12 tháng Tám 1978 ký giữa Tokyo và Bắc kinh. 

Nội dung các kế ước quốc tế dẫn trên nhìn nhận hiệu lực Tuyên bố Caire 1943, tức khẳng định Đài loan, Bành hồ và Mãn châu thuộc về Trung hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch, vào thời điểm mà nước Cộng hòa nhân dân Trung quốc chưa khai sinh. (Trung cộng khai sinh ngày 1 tháng Mười 1949). Các chính phủ Trung hoa dân quốc  cát cứ ở Đài loan sau này hiển nhiên có đủ tư cách kế thừa chính đáng di sản về chủ quyền lãnh thổ của Trung hoa dân quốc.  

Ý kiến của Thương nghị sĩ Alain Richard, cho rằng Đài loan là một “nước”, trên phương diện “de jure” là đúng với thực tế và lịch sử. Vì vậy ông Triệu Lập Kiên có vẻ lạc điệu khi “lên gân” với Pháp bằng lời lẽ như vậy. 

Tuyên bố Thượng hải 28 tháng Hai năm 1972.

Chúng ta đều biết Quốc gia (Etat - State) tên gọi “Trung hoa Cộng hòa quốc” hay Trung hoa Dân quốc đã được thành lập sau ngày “cách mạng Tân hợi”, còn gọi là “cách mạng Vũ xương”, bắt đầu từ ngày 10 tháng Mười năm 1911. Cuộc cách mạng đã hạ bệ triều đình nhà Thanh và chấm dứt nền quân chủ lâu đời 2000 năm của Trung hoa. 

Nền cộng hòa ra đời, kế thừa một tấm “dư đồ” rách nát để lại từ triều đình nhà Thanh. Những nơi phồn hoa đô hội, đô thị, thành phố, hải cảng, hệ thống đường sắt, những quặng mỏ, ruộng lúa… đều nằm trong tay nước ngoài, dưới danh xưng “nhượng địa”. Đất nước Trung hoa chìm ngập vào nạn “sứ quân”. Người ta thống kê từ năm 1917 đến năm 1928, những vùng sâu xa, gọi là “lục địa,” có tới 1200 sứ quân. 

Chỉ đến năm 1928 Trung hoa lục địa được thống nhứt dưới ngọn cờ “cách mạng quốc gia chủ nghĩa” của Thống chế Tưởng Giới Thạch. Ông này kế thừa di sản Trung hoa dân quốc (và Tam dân chủ nghĩa) của Tôn Văn. Ngày “Song thập”, tức ngày 10 tháng Mười được lấy làm ngày Quốc khánh của Trung hoa dân quốc.

Như đã viết trên, Thống Chế Tưởng Giới Thạch đứng vào phe Đồng minh và tuyên bố chiến tranh với Nhật. Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch đứng về phe “chiến thắng”, được Mỹ hết lòng ủng hộ. Do vậy Trung hoa dân quốc trở thành “thành viên khai sinh” ra tổ chức Liên hiệp quốc. Trung hoa dân quốc cũng chiếm một ghế, là một trong năm thành viên có quyền “Veto” của hội đồng Bảo an LHQ (4 thành viên kia là Mỹ, Nga, Anh và Pháp).

Đến khi thua trận Mao Trạch Đông 1949, Tưởng giới Thạch cùng toàn bộ nội các (bao gồm các thành viên Quốc hội) của Trung hoa Cộng hòa quốc di tản chiến thuật ra Đài loan. Cho đến cuối đời của Tưởng Giới Thạch, mục tiêu của Trung hoa dân quốc là “tiễu trừ cộng phỉ - quang phục lục địa”. 

Hàng năm ngày 10 tháng Mười Đài Bắc tổ chức tưng bừng ngày “Quốc khánh” như là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”. 

Lập trường của Mỹ về Trung hoa dân quốc chỉ thay đổi sau cuộc “ngoại giao bóng bàn” giữa Kissinger và Chu Ân Lai năm 1970. Kết quả việc này Tổng thống Nixon thăm viếng Bắc kinh và hai bên Mỹ-Trung ra “Tuyên bố Thượng Hải” ngày 27 tháng Hai 1972. Nội dung Mỹ nhìn nhận rằng “dân chúng hai bờ eo biển Đài loan chủ trương một nước Trung hoa và Đài loan là một phần của nước Trung hoa. Chính phủ Mỹ không phản đối lập trường này. Chính phủ Mỹ tái khẳng định lợi ích của Mỹ về một giải pháp hòa bình, của người Hoa, cho vấn đề Đài loan…”

Lập trường của Mỹ từ đó thay đổi: Lục địa không thuộc về Trung hoa dân quốc mà Đài loan thuộc về Cộng hòa Nhân dân Trung quốc của Mao Trạch Đông. 

Trung hoa dân quốc mất ghế đại diện ở LHQ năm 1971 cho Trung cộng và đến năm 1979 Mỹ đoạn giao với Đài bắc để thiết lập ngoại giao với Bắc kinh. 

Trong chừng mực “Quốc gia-Etat-State” tên gọi “Trung hoa cộng hòa quốc” (tức là Trung hoa dân quốc) đã bị Mỹ “khai tử” trên giấy tờ từ lúc công nhận chính quyền cộng sản ở Bắc kinh.

Ngay sau khi Tuyên bố Thượng hải ra đời 27 tháng Hai 1972, dân chúng ở Đài loan khai sinh phong trào chủ trương một quốc gia Đài loan độc lập có chủ quyền. 

Đài loan cộng hòa quốc.

Quốc gia tên gọi “Đài loan cộng hòa quốc” được tuyên bố thành lập ngay sau khi hiệp ước Shimonoseki 1895 ký kết giữa nhà Thanh và Nhật. Nội dung hiệp ước nhà Thanh nhượng vĩnh viễn Đài loan cho Nhật. 

Tái dựng lại Đài loan cộng hòa quốc có thể là cái phao cứu vãn Đài loan để không bị lục địa thôn tính. 

Trong chừng mực về pháp lý, Đài loan khá giống với Việt Nam Cộng hòa. Cả hai, trên thực tế, “hành sử “như là quốc gia”. 

Hiến pháp của Quốc gia Trung hoa dân quốc qui định lãnh thổ bao gồm Đài loan và lục địa. Dân chúng bao gồm tất cả dân chúng sinh sống trên lãnh thổ Trung hoa. 

Vấn đề là thẩm quyền về lãnh thổ của Trung hoa dân quốc chỉ giới hạn ở Đài loan. Về dân chúng, dân lục địa đóng thuế cho Bắc kinh chớ không đóng cho Đài bắc. Tức là, nếu Trung hoa dân quốc là “Quốc gia - Etat - State”, thì đây là “quốc gia chưa hoàn tất”. 

Quốc gia chưa hoàn tất không được gia nhập tổ chức LHQ dó đó không được hưởng các quyền của một quốc gia thành viên. 

Tương tự VNCH. Thẩm quyền lãnh thổ của VNCH chỉ giới hạn ở các tỉnh miền Nam (dưới vĩ tuyến 17). VNCH cũng là một “quốc gia bị phân chia” hoặc là “quốc gia chưa hoàn tất”.

Quốc gia “bị phân chia” là quốc gia trước khi bị phân chia đã được nhìn nhận là “quốc gia”. Sau khi bị phân chia hai bên (hay các bên) cùng có lập trường là thống nhứt đất nước.

Nếu Đài loan vẫn “dính liền” với lục địa, như các kết ước quốc tế đã khẳng định, thì trước sau gì Đài loan cũng sẽ bị TQ thôn tính, dưới danh nghĩa là “thống nhứt đất nước”. 

Điều này tương tự VNCN. Không hóa giải hiệp định Genève 1954 (và Hiệp định Paris 1973) để tách rời VNCH ra khỏi VNDCCH và tuyên bố độc lập, trước sau gì VNCH cũng sẽ bị VNDCCH thôn tính, dưới chiêu bài “thống nhứt đất nước”.

Về lịch sử, ngày 17 tháng 4 năm 1895 Thanh triều phải ký hòa ước với Nhật tại Shimonoseki, nhượng cho Nhật đảo Đài Loan và bán đảo Liêu Đông cũng như buộc nhà Thanh phải “trả” lại “độc lập” cho Triều tiên, vốn trước đây thần phục Thanh triều. Hòa ước cũng buộc Trung Hoa phải bồi thường chiến phí cho Nhật một số tiền là 200 triệu lạng bạc (trong khi ngân sách hàng năm của Thanh triều chỉ có 89 triệu lạng bạc). Nhưng việc nhượng bán đảo Liêu Đông cho Nhật đã bị các nước như Nga, Pháp và Đức phản đối. Theo các nước này, việc chiếm bán đảo Liêu Đông sẽ đe dọa an ninh Bắc Kinh và không thể bảo đảm độc lập cho Triều tiên. Cuối cùng Nhật nhưọng bộ, “bán” lại bán đảo Liêu Đông cho nhà Thanh với giá tiền là 30 triệu lạng bạc.

Việc chuyển giao Đài Loan cho Nhật gặp sự chống đối của dân bản xứ. Ngày 23 tháng 5 năm 1895, ông Tang Jingsong tuyên bố Đài Loan độc lập : Đài Loan cộng hòa quốc. Ông Tang được các nhân sĩ trên đảo bầu làm tổng thống. 

Trên lý thuyết không có gì cấm cản Đài loan dựng lại ngọn cờ “Đài loan cộng hòa quốc” để tuyên bố độc lập với lục địa. 

Chỉ khi nào Đài loan trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, luật quốc tế về chiến tranh được áp dụng. Đài loan được Hiến chương LHQ bảo vệ. 

Tương tự trường hợp “phòng vệ đa phương” áp dụng cho Koweit sau khi bị Irak xâm lăng. Liên quân 35 nước được thành lập dưới sự lãnh đạo của Mỹ ngày 28 tháng Hai năm 1990, đánh Irak để “giải phóng” Koweit. 

Phải chăng ý kiến “nước Đài loan” của Thượng nghị sĩ Pháp Alain Richard khai mở một lộ trình để “quốc tế hóa” vấn đề Đài loan ? 

Bởi vì bất cứ một tuyên bố ly khai, qua trưng cầu dân ý hay qua hình thức tuyên bố đơn phương, TQ có thể áp dụng luật Chống ly khai để đánh Đài loan.

Lập trường của TQ, Đài loan là một "vấn đề nội bộ của TQ". Mới đây TT Biden cũng tái khẳng định điều này.


vendredi 24 septembre 2021

AUKUS và “khủng hoảng tàu ngầm”.

 Sau cú điện thoại của tổng thống Biden gọi cho TT Macron, hai bên Mỹ và Pháp ra tuyên bố chung ngày 22-9-2021. Phía Mỹ có vẻ nhìn nhận sai lầm của mình. Đó là chuyện Mỹ đã không tham vấn trước với đồng minh, khi Mỹ và Úc phá vỡ “hợp đồng tàu ngầm” ký kết giữa Pháp và Úc năm 2016. Nhưng đây không phải là một lời xin lỗi mà người dân Pháp muốn nghe. Dư luận báo chí đa số chỉ bàn về “hợp đồng tàu ngầm” dưới cái nhìn thuần túy kinh tế mà phần lớn sự kiện bị lệch lạc. Phần chìm của tảng băng là ý kiến của cựu thủ tướng nước Úc Kevin Rudd trong bài viết đăng trên báo Le Monde hôm qua 21-9-2021. 

Ông Kevin Rudd cho rằng hợp đồng tàu ngầm không phải là một hợp đồng thuần túy kinh tế mà là trọng điểm trong quan hệ chiến lược Úc và Pháp. Theo ông này thủ tướng Scott Morrison đã phạm nhiều sai lầm. Morrison hành sử thiếu chuyên nghiệp, cái cách mà người ta không thể sử dụng cho kẻ thù của mình, huống chi đối với  “đồng minh chiến lược” của Úc là nước Pháp. 

Cựu thủ tướng Kevin Rudd cho rằng bộ trưởng bộ Ngoại giao Pháp Jean-Yves Le Drian có lý, khi ông này lớn tiếng chỉ trích Úc “dối trá”, chơi trò “lật lọng” và “đâm sau lưng” đồng minh.

Nhắc lại Hiệp ước AUKUS được công bố qua cuộc họp báo chung ba bên Mỹ, Anh, Úc hôm 15 tháng Chín 2021. AUKUS là chữ viết tắt của AUstralia - United Kingdom và United States - nước Úc đứng đầu, nước Anh đứng thứ hai nhưng ai cũng thấy Mỹ mới là “anh hai” đứng đầu trong liên minh mới thành lập. Mục đích thành lập liên minh “chống TQ” dưới tiêu chí “bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ”. 


Sau cuộc họp báo, Úc tuyên bố vì nhu cầu thay đổi nên Úc ngưng hợp đồng tàu ngầm với Pháp. Úc quyết định chuyển sang tàu ngầm chạy bằng lò nguyên tử do  Mỹ chế tạo, thay vì tàu ngầm qui ước chạy bằng diesel của Pháp. 


Các lý do hủy bỏ hợp đồng với Paris, Thủ tướng Scott Morrison nhắc các việc hợp đồng không tuân thủ qua các khía cạnh “đội giá”, (từ 50 tỉ đô Úc lên đến 90 tỉ đô Úc), không chuyển giao công nghệ, giao hàng trễ và hợp đồng với Pháp không tạo nhiều việc làm trên lãnh thổ Úc. 

Về nhu cầu “tàu ngầm hạt nhân”. Các quốc gia Nhật (1995), Ấn độ (1998) và Úc (2012) đã là “đồng minh chiến lược” của Pháp. Năm 2017 hai bên Úc-Pháp nâng tầm hiệp định lên “quan hệ chiến lược toàn diện”, bao gồm nhiều lãnh vực (quốc phòng, an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa…). Cả bốn quốc gia này chia sẻ một quan niệm chiến lược chung về “Ấn Độ - Thái bình dương”. 

Úc đàm phán với Pháp từ năm 2014 để mua tàu ngầm và hợp đồng được ký năm 2016. Tức là “hợp đồng tàu ngầm” là “điểm nhấn” của “trục chiến lược” Úc-Pháp trong khu vực “Ấn độ - Thái bình dương”. 

Từ quá trình đàm phán đến lúc ký kết “hợp đồng tàu ngầm”, nhu cầu của Úc luôn là “tàu ngầm qui ước”. Pháp đã phải thay đổi, từ nền tảng kỹ thuật của lớp Barracuda, vốn là tàu ngầm tấn công nguyên tử, trở thành tàu ngầm qui ước chạy diesel cho phù hợp với nhu cầu quốc phòng của Úc. 

Về điểm này cựu thủ tướng Kevin Rudd phê bình: “Tôi thấy quyết định của chính phủ Scott Morrison có nhiều điểm sai lầm sâu sắc, từ cơ bản. Quyết định này vi phạm tinh thần quan hệ đối tác chiến lược mà Pháp và Australia thông qua vào năm 2012, được Thủ tướng Australia, Malcolm Turnbull, củng cố thành “đối tác chiến lược toàn diện” vào năm 2017… Nước Úc đã phạm sai lầm là không cho cơ hội nước Pháp đệ trình một dự án khác về tàu ngầm nguyên tử mà nước này có bề dày kinh nghiệm trong quá trình sản xuất… Scott Morrison đã không tôn trọng qui tắc ngoại giao, là không thông báo trước cho đối tác mà đã công bố quyết định đơn phương của Úc ra trước công chúng…” 

Về việc “đội giá”. Hợp đồng hai bên ký kết có qui định mục “đền bồi”, nếu một bên không tuân thủ, hay sơ suất một điều gì đó đã qui định theo hợp đồng. Vụ “đội giá” thường xảy ra lúc thi hành hợp đồng, hoặc do giá cả vật liệu gia tăng, hoặc do đồng tiền (Úc) bị mất giá. (Ta thấy vụ “đội giá” đường sắt Cát linh - Hà đông ở Hà nội do nhà thầu TQ xây dựng. “Đội” biết bao nhiêu lần mà phía VN chỉ móc tủi ra trả mà không làm được chuyện gì).

Về các lý do “chuyển giao công nghệ”, giao hàng trễ và hợp đồng với Pháp không tạo nhiều việc làm trên lãnh thổ Úc. 

Báo chí bên Pháp phản biện rằng hợp đồng ghi thời hạn giao đến năm 2030. Chưa đến thời hạn giao thì làm gì có vụ “giao hàng trễ” ? Trong khi tàu ngầm được chế tạo bằng thép của Úc, tại các nhà máy được xây dựng trên đất Úc và với công nhân của Úc. 

Vài giờ trước khi tuyên bố hủy bỏ hợp đồng, đại diện bộ Quốc phòng Pháp còn nhận được thư từ đồng nhiệm ở Úc bày tỏ sự hài lòng qua những gì mà Pháp đã thực hiện trên thực tế. Lá thư còn khen ngợi những khả năng ưu việt của tàu ngầm Barracuda… 

Pháp có thể cung cấp cho Úc tàu ngầm nguyên tử lớp “tấn công”, y như nguyện vọng của Úc. Tàu ngầm của Pháp năng lượng chạy hầu như “vô hạn”, có thể hoạt động liên tục dưới biển sâu 277 ngày mỗi năm, với giá rẻ hơn tàu ngầm của Mỹ. Pháp có thể cung cấp nhanh chóng hơn Mỹ thời gian 10 năm và phía Úc được lợi nhiều hơn (do chuyển nhượng kỹ thuật). 

Đúng như cựu thủ tướng Úc Kevin Rudd đã nói: Hợp đồng cung cấp tàu ngầm không phải là một hợp đồng kinh tế. Đây là một phần của kết ước “chiến lược” giữa hai quốc gia Úc và Pháp. 

Thành lập liên minh AUKUS rõ ràng là Scott Morrison đã “rập khuôn” tầm nhìn chiến lược của nước Úc lên quan niệm chiến lược toàn cầu của Mỹ (đúng ra là “lý thuyết Biden”).

Bài thuyết trình của TT Biden trước Đài hội đồng LHQ hôm kia ta có thể nhìn thấy phần cốt lõi của “lý thuyết Biden”. 

Tổng thống Biden cho biết Mỹ đang "mở ra một kỷ nguyên ngoại giao không ngừng". 

Vấn đề là liên minh AUKUS là một nhát dao “đâm sau lưng đồng minh”. Cái cách hành sử của thủ tướng Morrison tệ hại đến đỗi tập quán ngoại giao quốc tế còn không sử dụng cho kẻ thù. Huống chi đối đãi với đồng minh có ký kết hiệp ước “chiến lược toàn diện”.  

Mục tiêu của AUKUS, qua tuyên bố của ba bên, là "bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ". 

Mà "luật lệ quốc tế" được xây dựng trên "niềm tin" giữa các quốc gia. Các hiệp ước, kết ước giữa các quốc gia cấu thành “luật quốc tế”.


AUKUS thành hình trên một sự "bội ước". Niềm tin giữa các đồng minh đã bị đổ vỡ. 


Biden cũng nhấn mạnh rằng : "Mỹ sẵn sàng làm việc với bất kỳ quốc gia nào ủng hộ và theo đuổi giải pháp hòa bình để chia sẻ thách thức, ngay cả khi chúng ta có bất đồng gay gắt trong các lĩnh vực khác".


Rõ ràng ý kiến này dành cho Việt Nam. 


Liên minh AUKUS đã cung cấp cho các lãnh đạo CSVN thân TQ những lập luận vững chắc để khẳng định “Mỹ không đáng tin cậy”. VN không được ngã theo Mỹ. 


Ai cũng biết rằng điều lo sợ của Mỹ là thấy một ngày nào đó bị TQ “qua mặt”. Đó là lý do Mỹ thành lập liên minh AUKUS. 

Đây không còn là một “dự kiến” mà có thể là sự thật. 

GDP của TQ có thể “qua mặt” Mỹ trong vòng vài năm tới. Kỹ thuật 5G của TQ, cũng như các thành quả về không gian, về “vật lý nguyên lượng” áp dụng cho máy tính, cũng như đà phát triển kinh tế của TQ sau Covid-19… Khả năng quốc phòng của TQ, về hải quân, không quân… ngày một tăng cao. Trong chừng mực một số lãnh vực TQ đã tiệm cận với “tầm” của Mỹ. 

TQ là "đối thủ chiến lược của Mỹ". Nhận định này đã có từ lâu. Mới đây Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Loyd Austin nhắc lại nhân chuyến công du qua Châu Á. 

Nhưng quyết định thành lập Liên minh AUKUS của Biden không chắc là thành quả của một quá trình suy nghĩ lâu dài.

Một lần Afghanistan có thể là "sai lầm" của Biden đối với đồng minh Ấn Độ. Biden đã giao Afghanistan cho Taliban mà đám khủng bố này là “con nuôi” của Pakistan, quốc gia “thù địch” của Ấn độ. 

Ấn độ và Pháp có cùng tâm trạng bị Mỹ phản bội. Ngay cả Nhật, nước này không thể không đặt dấu hỏi cho số phận của mình, nếu một ngày nào đó Mỹ “trở áo” đi với TQ.

Câu hỏi cựu thủ tướng Anh Theresa May đặt ra cho Boris Johnson tại Quốc hội Anh: Nếu TQ đánh Đài loan và Mỹ can thiệp. Anh có theo Mỹ đánh TQ hay không ? 

Câu hỏi coi bộ khó trả lời, bởi vì Boris Johnson nổi tiếng chính trị gia “cơ hội chủ nghĩa”. Ngay cả khi Mỹ xung đột toàn diện với TQ, tại Biển Đông hay vì lý do nào đó, Anh có tham dự bên cạnh Mỹ hay không ? 


Dân Anh có lý do để đặt vấn đề: tại sao tôi phải đổ máu cho dân Đài loan ? Còn ở biển Đông, lợi ích của dân Anh ở đâu ? Tại sao tôi phải đổ máu bảo vệ cái không phải của tôi ? 


Boris Johnson “chống” TQ rất trễ. Chủ trương Brexit trải qua nhiều thời thủ tướng Anh. Mục tiêu của Brexit đến gần đây không đổi. Đó là Anh không cần Châu Âu vì sẽ  ký hiệp ước kinh tế với TQ và sử dụng Hong Kong như là “cánh cửa” để chinh phục lục địa TQ. Boris Johnson mới đây còn có chủ trương đặt hệ thống 5G của Hoa Vi trên toàn nước Anh. Nếu không có vụ Trump “đập”  Tập Cận Bình, qua vụ “chiến tranh kinh tế”, thì Anh đã nằm trong hệ thống “vành đại con đường” của TQ.


Anh chỉ bắt đầu chống TQ, vì sức ép của Mỹ (buộc phải chọn phe) và vụ Hong Kong. 


Nhưng nếu đặt câu hỏi cho Pháp, nếu TQ “trỗi dậy không hòa bình” đánh Đài loan và nếu Mỹ can thiệp. Ta chắc chắn có có câu trả lời. 


Chiến lược “Ấn độ - Thái bình dương” là một khái niệm khơi nguồn từ Pháp, Nhật, Ấn độ và Úc từ năm 1995. Pháp, tương tự như Úc trong khu vực, có các lãnh thổ hải ngoại, có hàng chục triệu cây số vuông vùng kinh tế độc quyền phải bảo vệ. Pháp là quốc gia Châu Âu duy nhứt có quân đội (7000 quân) đóng ở khu vực Ấn độ - Thái bình dương. Chiến lược “Ấn độ - Thái bình dương” của bộ tứ Pháp, Úc, Nhật, Ấn độ khải huyền từ khi TQ đe dọa “trỗi dậy không hòa bình”.  


Pháp hành sử “độc lập”, vì lợi ích của mình và đồng minh. Trong khu vực Ấn độ - Thái bình dương Pháp không “cơ hội chủ nghĩa” vì Pháp có quyền và lợi ích phải bảo vệ. Nếu Mỹ đánh TQ, lợi ích của Pháp bị đe dọa, Pháp sẽ đứng về phía Mỹ. Vì đây là cách bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi ích của Pháp.


Còn nước Úc ? Phá hủy hiệp ước “chiến lược toàn diện” với Pháp, đứng một góc trong “tứ giác kim cương”, ngang hàng với Mỹ trong “Ấn độ -Thái bình dương”. Thực chất nước Úc có quan hệ kinh tế với TQ nhiều gấp 3 lần với Mỹ. Gần đây cũng bị Mỹ ép “chọn phe”, Úc bị TQ “trừng phạt” khiến kinh tế Úc lao đao. Úc có tiếng mà không có miếng.

Thực tế cho thấy chiến lược “Ấn độ - Thái bình dương” thiếu TPP, rõ ràng là không ổn. Giải pháp của Úc là gì để phục hồi kinh tế hậu Covid-19 ? Úc đương nhiên sẽ bị Pháp cản trở trong mọi vận động để ký với khối Châu Âu một hiệp ước về kinh tế. 

Khối “nói tiếng Anh” gồm Mỹ, Anh, Úc với AUKUS, nếu không mở rộng ra các quốc gia Nhật, Nam Hàn, Đài loan và các quốc gia ASEAN để làm động lực phát triển kinh tế thì sẽ không bao giờ bao vây được TQ. Vấn đề là nền tảng của AUKUS là sự “phản bội”, sự thiếu chân thật của Mỹ và Úc. Có vô số lý do để các quốc gia “tránh xa” AUKUS hơn là gia nhập khối này.